Tuần Thánh
TUẦN THÁNH
——————————————————————–
LỄ LÁ.A
(Mt 26,14-27,66)
Bài Thương Khó Lễ Lá năm nay đọc bài Thương Khó do thánh Matthêu tường thuật. Cả 4 thánh Mt, Mc, Lc và Ga đều tường thuật về cái chết của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, mỗi tác giả có một cái nhìn riêng biệt, một cái nhìn độc đáo.
Bài tường thuật của thánh Matthêu nhấn mạnh đến vương quyền của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu là vua. Tính cách vua của Chúa đã thể hiện :
- Trong việc Chúa vào thành thánh Giêrusalem,
- Trước tòa án Philatô. Tổng trấn Philatô hỏi : Ông là vua dân Do thái sao ?”. Chúa Giêsu trả lời : “Chính ngài nói đó !”.
- Trong việc quân lính Rôma xỉ nhục Chúa : cho mặc áo choàng đỏ, kết vòng gai làm mũ triều thiên, trao vào tay mặt một cây sậy, chúng quì gối nhạo : “Vạn tuế đức vua dân Do thái”.
- Tấm bảng treo trên thập giá : “Người này là Giêsu , vua người Do thái”,
- Người qua lại nhạo báng : “Hắn là vua It-ra-en ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập giá đi, thì chúng ta tin hắn liền.”
Chúa Giêsu là vua; song là một ông vua khác đời, chẳng giống đời chút nào. Đó là một ông vua khiêm nhường. Chúa Giêsu không phải là một ông vua bị tước mất quyền hành, một ông vua bù nhìn; song chính Chúa tự mình tước hết quyền hành, tự lột mình để trở thành đầy tớ, trở thành nô lệ cho mọi người.
Lòng khiêm nhường của vua Giêsu đặc biệt thể hiện qua lời Chúa kêu trên thập giá : “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?”. Trong 7 lời Chúa nói trên thập giá, đây là lời có truyền thống rõ ràng nhất. Lời của truyền thống lâu đời được giữ gìn trong Mc và Mt. Chính lời này những sọan giả về sau, Lc và Ga, cho là chướng, đã bỏ không ghi lại. Những sách Phúc âm giả, như sách Phúc âm của thánh Phêrô, cũng lấy làm chướng, đã sửa lại là : “Ôi quyền hành của ta ! quyền hành của ta ! Sao lại bỏ rơi Ta ?”.
Tiếng kêu “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?” diễn tả ý nghĩa sâu xa nhất của thập giá, hơn bất cứ điều gì trong cuộc thương khó. Tiếng kêu trên thập giá này thật là phi lý, nhưng như thánh Phaolô viết trong thư Côrintô : “Đấng chẳng biết tội là gì, thì TC đã biến Người trở thành hiện thân của tội lỗi, vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2Cr 5,21).
Khi tự hạ, Chúa Giêsu từ bỏ ngự bên hữu Thiên Chúa, để ở bên cạnh những người tội lỗi, hầu tìm kiếm và cứu thóat họ. Chúa Giêsu đã mang việc cứu rỗi này lên tới thập giá, tới chỗ thấp hèn nhất. Chúa đã trở nên một tội nhân, để đặt mình dưới án “thịnh nộ của Thiên Chúa”, bị Thiên Chúa bỏ rơi. Cảm nhận Thiên Chúa bỏ rơi đã xuất phát từ sự hữu hạn. Lời nói trên thập giá đó đã đem lại ý nghĩa thần học cho cái chết của Chúa. Cái chết của Chúa không phải là cái chết thường tình như bất cứ ai, cái chết sinh học. Chính vì Thiên Chúa, chứ không phải chống lại Thiên Chúa, mà Chúa Giêsu chịu mọi hậu qủa đớn đau nhất của tội lỗi.
Lời “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?” không chỉ là một trong những lời trên thập giá, mà chính là lời của thập giá, lời đem lại ý nghĩa cứu độ cho thập giá. Thập giá đó là chỗ tột đỉnh của đức tính khiêm nhường của vua Giêsu. “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
————————————
Thứ Hai
(Ga 12,1-11)
Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bê-ta-ni-a. Bê-ta-ni-a có nghĩa là “Nhà của gặp gỡ”. Chúa Giêsu đã vào nhà của ba chị em Matta, Maria và Ladarô. Gia đình đã làm cơm đãi Chúa. Cô Mátta lo việc nấu nướng, còn cô Maria thì xức dầu thơm cho Chúa. Theo sách TM của thánh Mc, cô xức thuốc thơm lên đầu Chúa; còn theo sách TM của thánh Gioan, cô xức chân Chúa.
Theo truyền thống người Do Thái, xức chân là xức cho người chết, chứ không xức cho người sống. Vì thế Chúa Giêsu mới nói : “Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy” (11,7). Và sách TM của thánh Lc thì viết : “Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn” (24,1).
Số dầu thơm cô Maria xức cho Chúa quãng độ 1/3 lít, giá khỏang 9 tháng lương của một công nhân. Vì thế ông Giuđa đã tiếc rẻ nói : “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy 300 quan tiền mà cho người nghèo” (11,5).
Theo truyền thống người Do Thái, người chết còn qúi hơn người nghèo. Giúp người chết là một trong những việc bác ái lớn lao nhất. Ông Giuđa cũng biết, nhưng ông lại phản đối, chỉ vì “y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp. Y giữ tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào qũi chung (11,6). Ông Giuđa đã đặt đồng tiền trên cả Chúa. Trái lại, cô Maria đã đặt Chúa trên tiền bạc. Chúa là trên hết, là tất cả.
Trong thư gửi các tín hữu Côrintô, thánh Phaolô viết : “Phàm người nữ nào cầu nguyện hoặc nói tiên tri mà lại để đầu trần, thì làm nhục kẻ làm đầu mình, vì người ấy như thể trọc đầu vậy. Người nữ mà để đầu trần, thì cứ cắt tóc đi. Nhưng nếu cắt tóc hay trọc đầu, là một điều xấu hổ đối với người nữ, thì hãy che đầu lại” (1Cr 11,5-6). Cô Maria lấy tóc lau chân Chúa là cô vượt cả lề luật. Qủa thật tình yêu thì không biên giới, bất chấp lề luật.
Thánh Gioan cho biết : “Cả nhà sực mùi thơm” (11,3). Các giáo phụ đã cắt nghĩa rằng : “Tòan thể Giáo Hội ghi nhớ hành động cao qúi này của cô Maria”. Hai sách TM của thánh Mt và Mc đều viết : “Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ đến cô” (Mt 26,13; Mc 14,9). Hội thánh nhớ hòai tình yêu của cô Maria đối với Chúa Giêsu.
——————————————–
Thứ Ba
(Ga 13,21-38)
Sự lừa dối của ông Giuđa lên tới cực độ. Ông là một nhà diễn xuất giỏi, là một người giả hình tuyệt vời. Ông che giấu được mọi tông đồ. Chỉ mình Chúa Giêsu biết âm mưu bán Thầy của ông. Nếu các tông đồ biết, chắc các ngài không để ông yên. Thánh Phêrô dám xin ông tí huyết, và tặng cho ông một nhát gươm.
Thánh Gioan kể : “Đức Giêsu cảm thấy tâm thần xao xuyến” (13,21). Khi gặp những người Hy Lạp trong dịp lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu cũng xao xuyến (Ga 12,27). Chúa xao xuyến về giờ chết của Chúa. Còn lúc này Chúa xao xuyến về sự phản bội của ông Giuđa : “Một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (13,21).
Chỉ trong 10 câu (21-31), tên ông Giuđa được nhắc đến 12 lần. Sự bội phản của một người bạn, một người thân thì sự bội phản đó đau đớn biết là dường nào. Bốn Sách Thánh dùng nhiều kiểu nói khác nhau để nói lên sự đau đớn này. Thánh Mc : “Một người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy” (Mc 14,18), “chính là một trong Nhóm Mười Hai đây” (Mc 14,20). Thánh Mt : Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ sẽ nộp Thầy” (Mt 26,23). Thánh Lc : “Bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy” (Lc 22,21). Thánh Gioan : “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13,18), “chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao ? Thế mà một người trong anh em lại là qủy dữ” (Ga 6,70)…
Chúa đã tín nhiệm giao chức quản lý cho ông Giuđa, và Chúa còn qúi ông cho ông ngồi bên cạnh Chúa. Khi ăn, người Do Thái không ngồi ăn như chúng ta, mà là nằm. Bàn ăn thấp, hình chữ U, đặt gối chung quanh. Nằm nghiêng mình về phía trái, tì khủyu tay trái vào gối, còn tay phải lấy thức ăn. Nằm ăn như vậy, thì đầu của người này chạm vào ngực của người khác. Chúa Giêsu là chủ nằm ở giữa bàn. Thánh Gioan, người môn đệ Chúa yêu, nằm ở bên phải, đầu của thánh Gioan tựa vào ngực Chúa. Còn ông Giuđa nằm ở bên trái Chúa, đầu Chúa tựa vào ngực ông Giuđa. Ông Giuđa được nằm bên trái Chúa như thế, nên Chúa mới có thể chấm bánh đưa cho ông và nói riêng với ông : “Anh làm gì thì làm mau đi” (13,27).
Chỗ bên trái là chỗ danh dự, chỗ dành cho người bạn thân nhất. Chẳng những chỗ ngồi, mà cả miếng ăn Chúa cũng dành cho ông Giuđa, như Chúa nói với thánh Gioan : “Thầy chấm miếng bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy” (Ga 13,26). Theo phong tục người phương Đông, chủ đích thân đưa miếng ăn cho ai, thì đó là người thân nhất. Chúa đã làm hai cử chỉ : một là chỗ ngồi, hai là miếng ăn để ông Giuđa biết Chúa yêu, mà ông Giuđa vẫn cứ giả điếc làm ngơ.
Thánh Phêrô và các tông đồ cũng phản bội, đã chối Chúa, đã bỏ chạy; nhưng các ngài không cố ý, chỉ vì nhút nhát, sợ hãi mà thôi. Còn ông Giuđa, ông cố ý, ông đã suy nghĩ và trù tính bán Chúa từ lâu.
Lý do nào ông Giuđa bán Chúa ? Bài TM ngày mai sẽ cho biết lý do.
———————————————–
Thứ Tư
(Mt 26,14-25)
Bài TM thánh lễ hôm qua cho biết ông Giuđa bán Chúa. Bài TM thánh lễ hôm nay cho biết lý do ông Giuđa bán Chúa :
1- Ông Giuđa không có đức khiêm nhường : theo thánh Gioan, Chúa Giêsu loan báo Giuđa phản bội sau khi Chúa Giêsu rửa chân cho các tông đồ. Một trong những ý nghĩa của việc rửa chân là khiêm nhường. Chúa Giêsu nói với các tông đồ : “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. Thật, Thầy bảo thât anh em : tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em ! Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây : ‘Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con’” (Ga 1313-18).
Ông Giuđa không chịu rửa chân cho người khác, nghĩa là không có lòng khiêm nhường, nên ông đã không chấp nhận Chúa. Ông đi theo Chúa vì tưởng rằng Chúa sẽ là một ông vua đầy quyền lực đánh đuổi quân Rôma, đem lại nền độc lập thịnh vượng cho quê hương xứ sở; không ngờ Chúa khiêm nhường như con chiên bị đem đi giết. Tưởng Chúa là người ăn trên ngồi trốc; không ngờ Chúa hạ mình sống như một người đầy tớ. Nên ông Giuđa đã phản bội Chúa.
2- Ông Giuđa không có tinh thần cộng đòan : Theo bài TM của thánh Mt hôm nay, khi Chúa Giêsu loan báo Giuđa phản bội, các tông đồ lần lượt đều hỏi Chúa : “Thưa Ngài, chẳng lẽ con sao ?” (26,22); chỉ một mình Giuđa hỏi : “Rabbi (nghĩa là Thầy), chẳng lẽ con sao ?” (26,25). Các tông đồ ai nấy gọi Chúa là Chúa, là Ngài, chỉ mình ông Giuđa gọi Chúa là Thầy. Như thế, ông khác người, không có tinh thần cộng đòan, tinh thần chung. Người không có tinh thần cộng đòan, tinh thần chung cũng là người không có lòng khiêm nhường.
3- Ông Giuđa coi trọng đồng tiền : theo bài TM của thánh Mt hôm nay, thì ngay sau khi bà Maria xức dầu thơm cho Chúa, ông Giuđa đã đi gặp các thượng tế để mặc cả về số tiền bán Chúa. Dầu thơm của cô Maria đáng giá 300 quan tiền, tức là lương 300 ngày công, hơn 9 tháng lương. Với cô Maria, tiền bạc chẳng đáng gì với Chúa; nhưng còn ông Giuđa thì khác. Ông nói : “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy 300 quan tiền mà cho người nghèo ?” (Ga 12,5). Thật ra, ông Giuđa đâu phải qúi yêu gì người nghèo, mà là vì đồng tiền. Thánh Gioan đã viết về ông : “Y nói thế không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp : y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào qũi chung” (Ga 12,6). Ông coi tiền bạc qúi hơn Chúa, nên ông đã phản bội Chúa, đã bán Chúa có 30 đồng bạc, giá bán một người nô lệ. Vì đồng tiền mà coi Chúa bằng một tên nô lệ. Thánh Phaolô viết cho ông Timôthê : “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1Tm 6,10).
4- Ông Giuđa không qúi yêu bí tích Thánh Thể : cuối bài giảng về bánh Thánh Thể, thánh Gioan kể lại như sau : “Nhiều môn đệ liền nói : ‘Lời này chướng tai qúa ! Ai mà nghe nổi ?’…Ngay từ đầu Đức Giêsu biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người” (Ga 6,60.64).
Theo thánh Luca, Satan nhập vào ông Giuđa, ông ra đi gặp các thượng tế và lãnh binh để bắt Chúa Giêsu, sau đó Chúa lập bí tích Thánh Thể (Lc 22,3.19). Ông Giuđa đã không qúi yêu Thánh Thể, nên ông đi rồi Chúa mới lập.
——————————————————-
Thứ Năm
(Ga 13,1-15)
Ai trong chúng ta cũng đã nhìn thấy bức ảnh “Bữa Tiệc Ly”, nhưng nguồn gốc lai lịch thì ít ai biết. Bức ảnh “Bữa Tiệc Ly” do ông Leonard de Vinci vẽ. Ông là một họa sĩ đại tài của nước Ý. Ông là một trong những họa sĩ đã vẽ những họa phẩm tôn giáo nổi tiếng của Giáo Hội.
Bức ảnh Tiệc Ly ông Vinci phải vẽ nhiều năm mới hòan thành. Để vẽ Chúa Giêsu ngồi ăn tiệc với các môn đệ, ông phải đi tìm một người có khuôn mặt tương xứng với khuôn mặt thánh thiện hiền từ của Chúa. Ông ra ngòai đi tìm. Ông vào các nhà thờ và ông gặp được một thanh niên. Người thanh niên có khuôn mặt thánh thiện và hiền lành gần giống như Chúa.
Ảnh Chúa họa sĩ Vinci đã vẽ xong, các tông đồ khác dần dần cũng xong, chỉ còn có ông Giuđa ông chưa vẽ được. Để vẽ ông Giuđa, ông cũng phải ra đường tìm người làm mẫu. Ông vào các quán nhậu, các vũ trường, các nơi tội lỗi, và ông đã tìm được một người có khuôn mặt thật xấu xí, thật dữ tợn, thật đểu cáng, để làm mẫu cho ông vẽ ông Giuđa. Khi vẽ gần xong ông Giuđa, người làm mẫu lên tiếng nói với họa sĩ : “Trước đây tôi đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ rồi !” Họa sĩ Vinci ngạc nhiên hỏi : “Thật không ?”. Người làm mẫu qủa quyết : “Thật mà ! Tôi đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ Chúa Giêsu” (William Barclay, The Gospel of John, vol.I, p.227-228).
***
Bức tranh “Bữa Tiệc Ly” hầu như ai cũng biết. Tấm ảnh thường được vẽ lại hay được trưng bày trên bàn thờ, có khi được treo trong phòng ăn của gia đình.
Họa sĩ Leonardo vẽ bức tranh trong vòng 7 năm. Khó khăn nhất là đi tìm người mẫu để vẽ Chúa Giêsu và ông Giuđa.
Họa sĩ phải đi đây đi đó, phải lựa chọn giữa cả ngàn thanh niên, mới tìm được người làm mẫu cho họa sĩ vẽ Chúa Giêsu. Đó là một thanh niên, khuôn mặt của chàng toát lên sự hiền lành, thánh thiện. Qua người thanh niên, họa sĩ đã vẽ Chúa Giêsu suốt 6 tháng mới xong. Tiếp tới là 11 tông đồ. Họa sĩ mất gần 5 năm mới vẽ xong 11 tông đồ.
Sang năm thứ bảy, họa sĩ bắt đầu vẽ ông Giuđa. Tìm người mẫu vẽ ông Giuđa cũng khó khăn, không khác gì tìm người mẫu vẽ Chúa Giêsu. Ông được giới thiệu một người tù đang bị giam trong trong nhà tù ở Rôma. Từ thành phố Milanô ông đến thủ đô Rôma. Vào nhà tù, ông nhìn khuôn mặt người thanh niên, ông đồng ý ngay. Khuôn mặt tóat lên đầy đủ những nét mà ông cần, để vẽ khuôn mặt Giuđa. Đó là một khuôn mặt hám lợi, lừa lọc, đạo đức giả, tàn ác. Ông được phép đặc biệt của nhà nước Rôma đem về làm người mẫu. Ông mất cả năm mới vẽ xong ông Giuđa.
Bút vẽ hạ xuống bàn, Họa sĩ Leonardo da Vinci nói với các người lính bảo vệ :
– Các anh hãy đem anh này về lại nhà tù.
Lính bảo vệ lôi anh đi.
Anh xin được đến từ biệt họa sĩ . Anh quì xuống dưới chân họa sĩ khóc nói :
– Thưa ngài Leonardo da Vinci, hãy nhìn con đi. Ngài không nhận ra con sao ?
Gần một năm qua, ông ngắm nghía anh cả hàng triệu triệu lần, để vẽ ông Giuđa. Ông chỉ thấy đó là nét mặt đểu giả của một người tù. Ông nói :
– Không, ta không nhận ra anh là ai. Anh là người tù ở Rôma. Anh phải trở lại nhà tù !
Người tù rú lên :
– Ngài Vinci, ngài hãy nhìn kỹ con đi. Con chính là người mà 6 năm trước đã làm mẫu cho ngài vẽ Chúa Giêsu.
Cả phòng vẽ ngạc nhiên. Khi nhận ra, mọi người đều khóc.
Sáu năm trước, người thanh niên là người thánh thiện đạo đức, xứng đáng làm người mẫu vẽ Chúa Giêsu. Chỉ 6 năm sau, sống trong tội lỗi, anh trở thành một người tù, một người độc ác, để làm mẫu vẽ ông Giuđa !
Ôi tội lỗi ! Tội lỗi đã phá hủy con người từ thân xác đến tâm hồn.
Nhưng, đội ơn Chúa, Chúa đã chết để xóa tội cho chúng con.
(Đinh Tất Quý, Lời Chúa & Cuộc Sống, Mùa Chay & Phục Sinh, trang 151)
***
Hôm nay Thứ Năm Tuần Thánh. Chính ngày hôm nay, Chúa Giêsu ăn Bữa Tiệc Ly với các tông đồ. Ba sách Tin Mừng Mt, Mc và Lc đều tường thuật Bữa Tiệc Ly này; chỉ trừ có sách TM của thánh Gioan là không. Nhưng thay vào đó, thánh Gioan tường thuật việc Chúa rửa chân.
Rửa chân là công việc của người dưới làm cho người trên, của nô lệ với chủ, của vợ với chồng, của con trai con gái với cha mẹ.
Khi rửa chân, Chúa Giêsu cởi áo ngòai ra, chỉ mặc áo trong, rồi lấy khăn thắt lưng, tức là mặc theo kiểu đầy tớ, kiểu nô lệ. Chúa Giêsu hạ mình làm đầy tớ, làm nô lệ để rửa chân các tông đồ.
Đối với thánh Gioan, rửa chân không chỉ có nghĩa là khiêm nhường, mà còn có nghĩa là phục vụ, phục vụ cho đến chết…..
Trong việc rửa chân, thánh Gioan đã viết về Giuđa : “Ma qủi đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giêsu” (Ga 13,2). Ma qủi tức là tội lỗi. Tội lỗi không thể hạ mình khiêm nhường, không thể phục vụ, không thể yêu đến chết được. Tội lỗi như Giuđa chỉ lừa thầy phản bạn mà thôi.
Còn khi đến rửa chân cho thánh Phêrô, thánh Phêrô xin rửa cả chân, cả tay, cả đầu nữa, thì Chúa Giêsu nói : “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa, tòan thân người ấy đã sạch” (Ga 13,10). Theo phong tục người Do Thái, trước khi đi ăn tiệc, người ta tắm. Tới nhà đãi tiệc chỉ việc rửa chân thôi. Tắm mà Chúa nói ở đây có nghĩa là phép rửa tội. Một khi tội lỗi đã được tầy sạch thì người đó sẽ có lòng khiêm nhường, có tinh thần phục vụ và yêu thương cho đến chết.
Hóa ra cũng một người, khi thánh thiện thì gống Chúa Giêsu, khi tội lỗi thì giống Giuđa.
—————————-
THỨ NĂM TUẦN THÁNH
(Xh 12,1-14; 1Cr 11,23-26; Ga 13,1-15)
Sách Tin Mừng thánh Gioan không tường thuật lại việc thiết lập bí tích Thánh Thể. Thánh Gioan theo một lịch khác với các sách Tin Mừng Nhất lãm. Ngài đặt lễ Vượt Qua vào chiều thứ sáu, sau việc Chúa chết. Bữa tiệc cuối cùng Chúa dùng với các môn đệ, theo Nhất lãm, là bữa tiệc Vượt Qua; song theo thánh Gioan chỉ là bữa tiệc chia ly, dầu bầu khí là lễ Vượt Qua.
Thánh Gioan kể lại câu chuyện không có trong các sách Tin Mừng khác : đó là việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Lời dẫn đầu thực là quan trọng : thánh Gioan dùng làm lời dẫn nhập cho cả chương cuối của tập sách. Thánh Gioan viết vắn tắt một vài lời : “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian, mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Đó là lời loan báo tử nạn.
Giọng điệu long trọng suốt cả những dòng chữ sau đó, vì thánh sử muốn làm nổi bật sự đối chọi giữa sự cao cả của Chúa Kitô khi trở về với Chúa Cha để trở thành Chúa của mọi sự và cử chỉ hạ mình lạ thường mà Chúa sắp thực hiện.
Cử chỉ có một không hai có tính cách tiên tri, vì các ngôn sứ dùng những cử chỉ mắt thấy tai nghe để diễn tả sứ điệp. Theo cách biểu tượng, Chúa Giêsu sắp sửa bày tỏ ý nghĩa Người ban khi chết. Người ta hiểu rằng tác gỉa sách Tin Mừng thứ tư lưu giữ cử chỉ này, một cử chỉ giầu dấu hiệu.
Một trật tự mới : Một trong ý nghĩa đầu tiên Chúa Giêsu ban khi chết là ý nghĩa của một tạo dựng mới. Sự hy sinh của Người sắp khai mở một sáng tạo mới, thiết lập một trật tự mới, ở đó các giá trị bị đảo lộn, các thứ bậc mang một ý nghĩa khác : không bị bãi bỏ (“Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì qủa thật, Thầy là Thầy, là Chúa”- Ga 13,13), nhưng sắp đặt lại để phục vụ : ý nghĩa của bác ái. Thế giới mới sẽ là thế giới của Tình yêu, của tình yêu nhau, của những cử chỉ thường tình nâng đỡ nhau (sau khi đã làm gương, Chúa Giêsu đã cắt nghĩa).
Trong cuộc tạo dựng một nhân loại mới mà Chúa Giêsu sắp tái tạo bằng sự hy sinh, người ta khám phá ra, như khởi đầu, sự hiện diện của Satan; Satan đã xâm chiếm tâm hồn của Giuđa (13,2). Trong cảnh rửa chân, có một hậu cảnh bi thương mà thánh sử đã không ghi lại. Có lẽ, chiều hôm đó, ông Giuđa đã tách mình ra khỏi một ông thầy đã có khả năng hạ mình xuống thấp như thế.
Dấu hiệu của một đầy tớ : “Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng” (13,4). Người đã mặc trang phục của một nô lệ.
Việc này như muốn căn dặn hàng lãnh đạo tôn giáo rằng người ta thường né tránh cảnh nô lệ của Israel thuở ban đầu, một công việc nặng nhọc và hèn hạ như “cởi giầy hay rửa chân cho ông chủ “ (Lv 25,39-40).
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, “Người đến từ Thiên Chúa và trở về với Thiên Chúa”, bằng lòng hoàn thành công việc của một tên thấp hơn cả nô lệ : “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,27).
Chúa Giêsu hiện diện như một đầy tớ. Phải chăng là để cho các môn đệ nhớ đến những bản văn của Isaia và về số phận thương đau của người Tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa ? Phải chăng để các môn đệ hiểu rằng việc hạ mình này là khởi đầu của những việc hạ mình khác ?
Cõi lòng trong sạch : Trong một đất nước mà thường người ta đi chân không hay đi dép, thì dấu hiệu của việc đón tiếp thân tình đối với vị khách đến nhà là cho một nô lệ rửa chân cho ông, để ông không còn bụi bặm bám trên đường đi.
Chúa Giêsu làm công việc này giữa bữa tiệc. Qua đó cho thấy rằng Người muốn trao ban một ý nghĩa khác khi rửa những dơ bẩn phần xác. Người nói rõ ràng với thánh Phêrô : “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13,8). Người rửa chân để cõi lòng được trong sạch, một sự trong sạch mà con người chỉ có thể nhận được bởi chính Chúa, lòng trong sạch đến từ Thiên Chúa, Thiên Chúa có sáng kiến trước. Sự trong sạch này là hoa qủa của việc Chúa hy sinh. Người mang lại sự trong sạch cho loài người, khi Người lấy máu mình rửa tội lỗi của nhân loại. Về sau thánh Phêrô mới hiểu. Đó là ý nghĩa Chúa Giêsu muốn trao ban cho các môn đệ khi Người chết.
Dấu hiệu của việc sai đi : Với các môn đệ của mình, những người lo toan tìm chỗ nhất và muốn biết ai là người lớn nhất trong họ, thì Chúa Giêsu đã ban cho các ông bài học khiêm hạ này.
Nhưng đồng thời, khi tự hạ trước mặt các ông, Chúa Giêsu còn muốn làm cho các ông cảm nhận được phẩm giá của các ông, làm cho các ông hiểu được nhiệm vụ cao cả đang chờ đợi nơi các ông : Chúa Giêsu rửa chân cho những người sắp trở thành những người đem Lời của Người, những người sắp đi đó đây để gieo vãi Tin Mừng : các ông là những sứ giả của Người.
Làm sao không nhớ đến bản văn của ngôn sứ Isaia, nơi từ “Tin Mừng” xuất hiện lần đầu tiên : “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Xion rằng : ‘Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị’” (52,7).
Thánh Phaolô, trong thư Rôma, khi nhắc lại vấn đề loan truyền Tin Mừng, đã lấy lại kiểu nói của ngôn sứ (10,15).
Dấu hiệu của lễ Vượt Qua : Cuối cùng việc rửa chân được đặt trong bầu khí Vượt Qua. Dĩ nhiên, trong sách Tin Mừng thứ tư, bữa tiệc ly không được trình bày như là lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, bầu khí của chiều hôm ấy rõ ràng là lễ Vượt Qua. Ngay từ đầu thánh sử đã viết : “Trước lễ Vượt Qua” (13,1), trong khi giờ đã đến với Chúa Giêsu “giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha” (13,1). “Vượt Qua” có nghĩa là sự vượt qua. Đó chính là “Lễ Vượt Qua”của Chúa mà Chúa Giêsu cử hành.
Đàng khác, ý nghĩa của câu chuyện này có tính cách mặc khải ; trong bữa tiệc, chủ gia đình làm những cử chỉ gợi nhớ cho người đồng bàn về những gì họ hỏi và trả lời để cắt nghĩa. Việc này đặc biệt nhắc lại diễn tiến của Lễ Vượt Qua của người Do thái.
Song sâu xa hơn, bối cảnh đằng sau là Phép Thánh Thể : mặc dầu không nhắc lại việc thiết lập, nhưng cử chỉ của Chúa Giêsu nói lên ý nghĩa thâm sâu của bí tích là bí tích của một Tình Yêu năng động, là qùa tặng cho con người. Nơi Thánh Thể, Chúa Giêsu vừa là gương mẫu vừa là nguồn mạch.
—————————————-
THỨ SÁU TUẦN THÁNH
(Is 52,13-53,12; Dt 4,14;5,9; Ga 18,1-19,42)
Bài tường thuật thương khó theo thánh Gioan khác với các sách Phúc Âm Nhất Lãm. Đây là những khác biệt :
Thánh Gioan không tường thuật cảnh lo buồn ở vườn Cây Dầu. Trước đó một chút, thánh sử đã nhắc đến một biến cố Chúa Giêsu xao xuyến khi thấy những người Hi Lạp đến gặp mình, mà đã được đọc trong chúa nhật thứ V Mùa Chay tuần trước.
Chúa Giêsu tự nộp mình (18,1-3) : ông Giuđa, kẻ phản bội đi dầu toán lính. Chúa Giêsu tiến ra đứng trước mặt họ, chẳng đợi cái hôn chỉ điểm của Giuđa. Trước đó chẳng ai có thể bắt được Người : những người nhiệt thành muốn tôn Người làm vua (Ga 6,15), các thượng tế và Pharisêu sai lính đến bắt vào dịp lễ Lều (7,36.44-45), những người Pharisêu khi nghe Chúa ở trong Đền thờ (8,20), những người Do thái muốn ném đá (8,39; 11,39). Chỉ vì “Giờ của Người chưa đến”. Nay giờ đã đến. Chúa Giêsu chấp nhận, như trong nghi thức thánh hiến Đền thờ nhắc lại : “Người tự do đi vào cuộc thương khó”.
Chính tôi (4-6): – Các ngươi tìm ai ? – Tìm Giêsu Nadarét. – Chính tôi ! Kiểu nói “tôi”, “tôi là” mà Chúa Giêsu dùng, thường có một thuộc từ đi theo, để nói lên tính siêu việt của bản thân và sứ vụ của Người. “Chính tôi là đường, là sự thật và là sự sống”, “chính tôi là mục tử nhân lành”, “chính tôi là cây nho đích thực”… Đôi khi Chúa Giêsu còn dùng kiểu nói tuyệt đối : “Trước khi có ông Abraham, tôi hằng hữu” (Ga 8,38). Đó là kiểu nói Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê (Xh 3,14). Chúa Giêsu không thay thế Chúa Cha, nhưng là tham gia vào thiên tính của Chúa Cha : “Cha tôi và tôi là một” (10,30). Khi nghe Danh Thiên Chúa, các kẻ thù lùi ra và ngã xuống đất. Kẻ chiến bại lại là kẻ chiến thắng.
Chúa cứu sống các môn đệ (7-9) : Chúa Giêsu tự nộp mình. Người chỉ muốn một mình người thôi. “Hãy để những kẻ này ra đi”. Người không dùng từ “môn đệ” để chúng khỏi bắt các ông. Người chỉ giơ tay, chúng phải vâng nghe. Chúa Giêsu là Đấng cứu thoát.
Tai bị chém (10-11) : Trong một cử chỉ thiếu khôn ngoan, có ý bảo vệ thầy mình, thánh Phêrô đã tuốt gươm chém tai đầy tớ của thượng tế. Cả bốn sách Tin Mừng đều kể câu chuyện này, nhưng chỉ có thánh Gioan cho biết thánh Phêrô là tác giả của hành động này và cho biết tên người đầy tớ là Malcus. Người ta nghĩ người đầy tớ này không phải là một người vô danh tiểu tốt, song là một đại diện đặc biệt của thượng tế có nhiệm vụ chỉ huy cuộc vây bắt này. Thánh Phêrô đã không lầm mà đi tìm một tên lính. Tai phải bị chém biểu thị một vết thương ô nhục. Chúa Giêsu đã can thiệp bằng cách nói với thánh Phêrô một lời, thay vì nói ở vườn Cây Dầu thì thánh Gioan đặt ở lúc này : “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống” (18,11). Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu rằng tất cả mọi chống cự đều vô ích, vì đó là ý của Chúa Cha mà Người phải chu toàn.
Chúa Giêsu bị trói (12) : theo thánh Gioan, Chúa Giêsu bị trói ngay lúc bị bắt. Còn theo thánh Matthêu và Maccô thì khi giải cho Philatô mới bị trói. Thánh Luca thì không nói gì.
Chúa Giêsu bị điệu đến Khan-na (13-23) : chỉ có thánh Gioan kể lại việc này. Ông Khanna là cựu thượng tế và là bố vợ của Caipha. Ông là thượng tế từ năm 6-15. Một trong những con trai của ông kế vị, nhưng chẳng được bao lâu (15-18). Tiếp đến là ông Caipha, con rể của ông, làm thượng tế cho tới năm 37. Rồi đến 4 con trai khác và một con trai của người cháu. Vì gia đình trị, nên ông có nhiều nhân chứng. Ông vừa có quyền về tôn giáo, vừa về chính trị và giàu có. Vua Hêrôđê Cả đã ghen tương về ảnh hưởng của các tư tế. Ông đã cho ám sát và gây nhiều tội ác với các gia đình tư tế.
Dường như ông Caipha ra lệnh điệu Chúa Giêsu đến nhà bố vợ của mình trước hết, để tỏ ý trọng vọng và vì uy tín của Khanna.
Chúa Giêsu bị tra hỏi về giáo thuyết. Chúa Giêsu đã kêu gọi những chứng nhân đích thực, những người có thể biến cuộc tranh luận này thành một vụ án thật sự, chứ không chỉ là một cuộc tranh luận đùa cợt của những con người tò mò. Chúa Giêsu kêu gọi “những người đã tụ tập ở các hội đường hay Đền thờ đã nghe Người, mọi người đã nghe sứ điệp của Người, làm nhân chứng cho Lịch sử.
Phải chăng Phúc Âm thứ tư hoàn toàn là một biến cố trong đó Chúa Giêsu phải đối mặt với những con người phải nhận mình là theo hay chống lại Người.
Chúa Giêsu trước tòa án Philatô (24-40) : thánh Gioan đã không tường thuật lại cuộc hội họp ở Thượng Hội Đồng, song ngài đã kể dài vụ án ở toà án Philatô. Với những yếu tố trình bày, thánh nhân đã làm nổi bật hoàn cảnh bi đát và nghịch lý. Hai quyền lực đối mặt nhau : một bên là Philatô, tức là Đế quốc Rôma, bên kia là Chúa Giêsu đến tữ trời cao và không có Người, Philatô chẳng là gì. Hai công lý : công lý lưỡng lự và bất công của quan toàn quyền Rôma và công lý của Chúa Giêsu đọc được lương tâm con người và xét đoán cả vị quan tòa : “Kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (11).
Sau cùng là sự thật và dối trá đối mặt nhau. Chúa Giêsu nhận mình là phát ngôn viên của sự thật, là người mặc khải sự thật. Người tuyên bố nhiều lần : người là sự thật, sự thật đến từ Thiên Chúa.
Ở bên ngoài, những người Do thái tố cáo Người bằng cả sức mạnh của gian dối : “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan” (30), “Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xêda. Ai xưng mình là vua thì chống lại Xêda” (19,12).
Sự dối trá lên tới tột điểm : “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xêda” (19,15). Nhưng trong lòng họ thì khác. Họ chỉ nuôi hy vọng : có một người trong họ nổi dậy giải thoát khỏi ách Rôma. Nếu Chúa Giêsu là một người phản loạn, một người cách mạng, thì không đời nào họ nộp Người cho Philatô !
Nhưng trước khi xảy ra cuộc tranh luận, thánh sử đã cho thấy sự giả dối của họ : “Họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được” (18,28); trong khi đó Chúa Giêsu vào nhà của người không cắt bì đã bị ô uế. Như vậy người Do thái ác độc thì lại cho mình là vô tội !
Suốt thảm kịch, Chúa vẫn luôn bình tĩnh. Trái lại, Philatô là con mồi của lo lắng, mất bình tĩnh. Thánh sử kể 3 lần quan tổng trấn đi ra đi vào : 3 lần đi ra hỏi ý kiến của Thượng Hội Đồng và dân chúng và 3 lần đi vào tra hỏi để biết tông tích nhiệm mầu của Chúa Giêsu.
Vấn đề chính của cuộc tranh luận, theo các sách Tin Mừng, là vấn đề chính trị : Chúa Giêu có phải là vua không ? Philatô không thể kết án Chúa, nếu câu trả lời không tích cực. Chúa Giêsu giải nghĩa : “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (18,36). Một vương quốc như thế không thể giống chút gì đế quốc Rôma. Philatô đã an tâm, song đám đông quấy động không nghe theo và đòi kết án Chúa Giêsu và tha Baraba.
Đánh đòn (19,1-13) : theo thánh Gioan, Philatô cho đánh đòn Chúa Giêsu, để có kết qủa khuyên can và làm cho người Do thái thương hại, Đánh đòn, đội mạo gai, mặc áo đỏ, lính tráng nhạo báng không phải diễn ra sau khi đã bị kết án như trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, song khi còn đang bị xét xử. Đó là một trong những nét khác biệt nổi bật.
Lý do làm vua là lý do đầu tiên của cuộc tranh luận, khiến đưa đến cảnh một ông vua bị nhạo báng bằng việc đội mạo gai làm cho máu chảy xuống mặt, và bằng việc mặc áo đỏ là dấu hiệu của chiến thắng.
Ông Philatô nói : “Đây là người” (19,5). Thánh Gioan là sử gia của việc nhập thể. Ngài không ngần ngại nêu ra cảnh rất hiện thực này, vì nó làm chứng Thiên Chúa làm người chấp nhận sự hạ mình tột độ. Nhưng bằng con đường đau thương, Con Người đạt tới vinh quang.
Tuy nhiên, các lãnh đạo hàng tư tế (thánh Gioan nêu họ ra một lần nữa) không sẵn lòng thương hại : “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá !” (19,6).Và vì lý do muốn làm vua đã không đủ làm lay động quan tổng trấn, người Do thái đưa ra một sự tố cáo khác : “Chúng tôi có Lề Luật, và chiếu theo Lề Luật thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa” (19,7). Lần này ông Philatô dao động. Ông bị dao động về một sự sợ hãi tôn giáo. Ông hỏi Chúa Giêsu : “Ông từ đâu mà đến” ? Chúa Giêsu đã không trả lời. Ông Philtô “từ đó tìm cách tha Người” (19,12).
Ông tổng trấn cố gắng đưa ra một sáng kiến khác để khuyên can. Ông đưa Chúa Giêsu “ngồi trên tòa, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Hípri là Gáp-ba-tha” (19,13). Ông nói : “Đây là vua các ngươi” (19,14). Ông chỉ nhận được những tiếng hô lớn : “Đem đi ! Đem nó đi ! Đóng đinh nó vào thập giá” (19,15). Và cả một lời đe dọa khích động đến Hoàng đế, khiến ông Philatô phải nhượng bộ, vì sợ bị tâu về Rôma và bị kết án là yếu đuối.
Ngày áp lễ Vượt Qua (19,14-24) : Đó là thứ sáu, ngày áp lễ Vượt Qua, quãng giữa trưa. Một chỉ dẫn thật qúi hóa. Trong sách Tin Mừng thánh Gioan, lễ Vượt Qua chính thức bắt đầu vào ngay chiều Chúa Giêsu chết (ngày được bắt đầu khi hoàng hôn).
Quãng giữa trưa Chúa Giêsu lên đồi Canvê. Người tắt thở vào 3 giờ, giờ các con chiên Vượt Qua bị giết nơi Đền Thờ. Ngài là Con chiên bị sát tế của lễ Vượt Qua mới.
Đóng đinh : Trong bản văn đóng đinh và Chúa Giêsu chết có ba điểm chỉ có nơi thánh Gioan :
- Chi tiết về chiếc áo dài không đường khâu (23)
- Những lời Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ (25-27)
– Lưỡi đòng đâm (31-37)
Ao dài không đường khâu : theo Luật, các áo của tử tội được phân phát cho các đao phủ. Có 4 đao phủ. Chúng chia làm 4 phần. “Họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới” (19,23).
Thánh Gioan đã đề cập đến sự kiện này, vì hình dáng của chiếc áo dài không có đường khâu là một việc bắt buộc phải làm trong phụng vụ đối với một thượng tế. Ông phải mang áo dài không đường khâu, khi cử hành lễ Xá tội cho toàn dân. Ngoài thư Do thái, đây là đoạn văn duy nhất trong Tân Ước nối kết Chúa Giêsu với chức thượng tế của Cựu Ước.
Chúa Giêsu và Đức Mẹ (19,25-27) : Trước khi tắt thở, Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ : “Thưa Bà, đây là con của Bà” (26). Những từ lạ tai. Như ở Cana, Chúa Giêsu nói với mẹ Người : “Bà…”. Rồi quay về phía môn đệ nói : “Đây là mẹ anh”(27).
Chúa Giêsu trao phó mẹ Người cho thánh Gioan. Ý định của Chúa Giêsu vượt qúa các nhân vật : hướng về Giáo hội. Nếu Người nói với mẹ Người : “Bà” như ở Cana, chính vì Người nhắc lại ơn gọi vượt qúa tình mẫu tử của Đức Maria. Thánh Gioan là môn đệ duy nhất trung thành cho đến cùng : ông là tín hữu, là Giáo hội. Chính nơi tình mẹ thiêng liêng bao la mà Đức Maria được trao phó. Vì vậy, Chúa Giêsu bắt đầu trao cho mẹ mình một nhiệm vụ. Chỉ trong tình thảo hiếu, Người mới trao mẹ Người cho thánh Gioan. Phải chăng Giáo hội coi Đức Maria là mẹ của mình ?
Lưỡi đòng đâm thâu (19,28-42) : thánh Gioan long trọng làm chứng : ngài đã thấy nước và máu chảy ra từ cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thâu. Tác giả đã không chú tâm đến phương diện vật lý, cho bằng ý nghĩa thần học. Qùa tặng cuối cùng là một sứ điệp.
Nước biểu tượng sự sống. Máu cũng vậy. Theo quan niệm thời đó, máu là chỗ của nguyên lý sự sống. Như vậy, Chúa Giêsu chết để ban sự sống. Sự sống thần linh trào ra qua các bí tích, nhất là bí tích rửa tội và Thánh Thể. Chắc chắn thánh Gioan đã nghĩ đến biểu tượng sâu xa này. Trong thư thứ nhất, thánh Gioan đã ghi “ba nhân chứng” : máu, nước và Thánh Thần. Đàng khác, nước cũng là biểu tượng của Thánh Thần và của sự sống thần linh.
Các lính tráng đã đâm lưỡi đòng vào cạnh sườn của Chúa Kitô, để xác minh là Chúa đã chết. Chúng đã không đập gẫy xương của Chúa. Thánh Gioan nhắc lại bản văn Kinh Thánh áp dụng cho con chiên của lễ Vượt Qua : “Chúng cũng không làm gẫy một xương nào của chiên Vượt Qua” (Ds 9,12).
Chúa Giêsu chính là chiên Vượt Qua. Chúa ở trong qùa tặng Thánh Thể. Thánh Thể khởi đầu cho việc hiến tế.
——————————————-
THỨ BẢY TUẦN THÁNH
Trong năm, chỉ có Thứ bảy Tuần Thánh mới là ngày không cử hành phụng vụ. Giáo hội chiêm ngắm sự chết của Chúa. Giáo hội không cử hành bí tích Thánh Thể, vì bí tích nói lên sự hiện diện của Chúa.
Đức Maria là gương mẫu cho sự yên lặng của Giáo hội, gương mẫu vừa của khổ đau vừa của hy vọng. Từ thế kỷ thứ X, để thánh hiến một sự sùng kính bình dân từ lâu đời, Giáo hội đã dâng ngày thứ bảy cho Đức Mẹ.
Từ thế kỷ thứ XIII, Giáo hội đã trung thành giữ ngày Thứ bảy Tuần Thánh không có phụng vụ. Vọng phục sinh chỉ cử hành vào đêm thứ bảy rạng chúa nhật. Lễ rửa tội cho tân tòng được xen vào lễ vọng. Họ là những người bắt đầu một đời sống mới vào lúc cử hành việc Chúa Kitô phục sinh.
Có thời lễ Vọng được cử hành vào sáng thứ bảy. Đến năm 1954, Đức Piô XII đã đem trở lại chỗ cũ và lấy lại ý nghĩa của ngày lễ.
Những bài đọc trong lễ Vọng với chủ đề lớn, sâu đậm Thánh Kinh : đó là mối liên hệ giữa tạo thành và tha thứ. Chỉ một mình Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, đã tạo dựng nên con người tốt đẹp mới có thể tái tạo con người. Bằng sự tha thứ, Người đã tái sinh con người. Mầu nhiệm Phục sinh cho chúng biết con đường Thiên Chúa đã chọn để tái sinh con người : đó là sự chết và sống lại của Chúa Kitô. Tín hữu đi vào mầu nhiệm cứu rỗi này qua bí tích Thánh Tẩy.
Vì thế các bản văn được chọn đọc trước hết nhắc đến việc tạo dựng, rồi đến vài chặng đường hay là những hình ảnh tiên báo lịch sử cứu rỗi.
——————————————–
ĐÊM VỌNG PHỤC SINH. A
(Mt 28,1-10)
Vào năm 57, thánh Phaolô viết cho các giáo hữu ở Corintô, nước Hy lạp ngày nay, một lá thư, trong đó ngài khẳng định về việc Chúa Giêsu sống lại như sau : “Nếu Đức Kitô không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền.” (1Cr 15,17). Đức tin chẳng những hão huyền, mà cuộc sống của người Kitô hữu cũng đáng thương nhất, thánh Phaolô viết : “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời nay mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.” (1Cr 15,19). Bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn, dòng Chúa Cứu Thế, nghe vừa mạnh bạo, vừa não nề thảm thương hơn. Ngài dịch như sau : “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì việc anh em tin cũng hão huyền !…Nếu ta đặt mối hy vọng vào Đức Kitô vỏn vẹn cho lúc sinh thời này thôi, thì qủa ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ !”
Chúa Giêsu sống lại là điều chủ chốt, là nền tảng của đức tin.
Người ta gọi 6 bài giảng trong sách Công Vụ Tông Đồ, 5 bài của thánh Phêrô (2,14-36; 3,12-26; 4,8b-12; 5,29-32; 10,34-43) và 1 bài của thánh Phaolô (13,16b-41), là những bài giảng tiên khởi. Những bài giảng này đều chú tâm đến cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Chẳng hạn bài giảng của thánh Phêrô cho người Do thái ngay sau ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống có câu :”Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa, và làm Đấng Kitô” (Cv 2,36), nghĩa là “Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thóat Người khỏi những đau khổ của cái chết.” (Cv 2,24).
Chúa Giêsu sống lại là nền tảng của đức tin, là điều chủ chốt của Tin Mừng, của lời rao giảng của các tông đồ. Thế nhưng, lại bị phản đối dữ dội, bị bắt bớ. Sách Công vụ kể : “Ông Phêrô và Gioan đang nói với dân, thì có các tư tế, viên lãnh binh Đền Thờ, và các người thuộc nhóm Xađốc kéo đến. Họ bực tức vì các ông giảng day cho dân và dựa vào trường hợp Đức Giêsu mà loan báo kẻ chết sẽ sống lại. Họ đã bắt hai ông và tống ngục.” (Cv 4,1-3). Khi thánh Phaolô đến Aten, thủ đô Hy lạp, giảng Chúa Giêsu được Thiên Chúa làm cho sống lại từ cõi chết (Cv 17,31), thì “vừa nghe nói đến người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói : Để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói về vấn đề ấy.” (Cv 17,32).
Cả người Do thái lẫn người Hy lạp đều phản đối sự sống lại.
Lời than thở của ngôn sứ Isaia, chúng ta đọc trong giờ kinh trưa thứ bảy hôm nay, là : “Con than thở như nhạn kêu chim chíp, con rầm rì chẳng khác bồ câu; nhìn lên Chúa mãi, mắt con đã hoen mờ…Vì ở chốn tử vong, không người ca tụng Chúa, và trong nơi âm phủ, chẳng ai ngợi khen Ngài. Kẻ xuống mồ cũng dứt niềm trông cậy vào lòng Chúa tín trung…Chỉ người sống, vâng chỉ người sống, mới ca tụng Ngài.” (Is 38,14.18.19).
Khi thánh Phaolô đến Aten, có hai phái triết gia đến tranh luận với ngài. Đó là phái Khóai lạc và Khắc Kỷ. Phái Khóai lạc chủ trương rằng : Chết là hết. Còn phái Khắc kỷ cho rằng : Mọi sự là Thần linh. Tinh thần trở nên mờ tối khi ở trong vật chất xác thịt. Khi chết, tinh thần được giải phóng và trở về với Thần linh. Vì thế, sách Công Vụ đã ghi lại phản ứng của người Hy lạp đối với lời giảng của thánh Phaolô về việc Chúa Giêsu sống lại như sau : “Kẻ thì nói : Con vẹt đó muốn nói gì vậy ? Người khác lại bảo : Hình như ông ta rao giảng về những thần xa lạ, vì ông Phaolô loan báo Tin Mừng về Đức Giêsu và về sự phục sinh.” (Cv 17,18).
Chính những tường thuật của thánh Mt về việc Chúa Giêsu sống lại, mà chúng ta đọc trong thánh lễ Vọng Phục Sinh hôm nay, cũng có tính cách bào chữa, chống đỡ trước những chống đối của người Do thái về việc Chúa sống lại. Có nhà Kinh Thánh bảo chúng ta hãy tưởng tượng cuộc tranh luận giữa thánh Mt và kẻ địch thù không tin Chúa sống lại như sau :
- Thánh Mt nói : Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và mộ của Ngài đã trống (28,6).
- Địch thù đối lại : Ông Giêsu có chết thật không ?
- Thánh Mt trả lời : Binh đội Rôma đã canh gác xác Ngài. Chắn chắn Ngài đã chết trước khi đưa vào mộ chôn (27,36).
- Địch thù chống lại : Có tráo trở thì sao ?
- Thánh Mt trả lời : Các bà đã thấy Ngài chôn trong đó (27,61).
- Địch thù cãi lại : Để cho lời ông Giêsu nói ngày thứ ba ông ta sống lại là thật, nên các môn đệ của ông đã ăn cắp xác ông đem đi.
- Thánh Mt đáp : Các môn đệ sợ chạy trốn hết, có ai ở gần mộ đâu mà ăn cắp (26,56).
- Địch thù cãi lại : Nhưng một ai đó đã ăn cắp.
- Thánh Mt bào chữa : Có một hòn đá lớn đã đóng kín mồ. Mồ đã được niêm phong. Có lính canh gác. Như thế, làm sao có ai ăn cắp được.
- Địch thù cãi lại : Vi lính canh ngủ, nên có người tới ăn cắp xác ông ta.
- Thánh Mt nói hụych tọet ra âm mưu gian dối của họ : Lính ăn hối lộ, nên mới phao vu là các môn đệ ăn cắp (28,12-15).
Chính niềm tin chết sống lại mà chúng ta sẵn sàng chịu cực khổ để sống ăn ngay ở lành. Chính thánh Phaolô đã tâm sự : “Chính chúng tôi, tại sao hằng giờ chúng tôi liều mình đương đầu với hiểm họa ? Thưa anh em, mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết : tôi có hãnh diện về anh em trong Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, thì tôi mới qủa quyết như vậy. (1Cr 15,30-31).
Nếu không có sống lại, không có đời sau thì thánh Phaolô bảo : “Nếu kẻ chết không chỗi dậy, thì chúng ta cứ ăn, cứ uống đi, vì ngày mai chúng ta cũng sẽ chết. (1Cr 15,32).
Cái chết là địch thù cuối cùng mà Chúa Giêsu chiến thắng. Thánh Phaolô nói : “Đức Kitô phải nắm vương quyền đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết.” (1Cr 15,25).
Chúa đã sống lại thật. Halleluia. Các môn đệ không những đã vui mừng, vì Chúa đã sống lại; mà còn dám chết cho niềm tin sống lại.
Linh mục Nguyễn Trung Thành