Chúa Nhật III Phục Sinh – Năm B


CN.3.PS.B

 

Giáo Huấn số 11

Một số Nguồn Lực

Lịch Giáo Phận trang 42

Các Nghị phụ Thượng Hội Đồng cũng nhấn mạnh rằng: “Lời Chúa là nguồn mạch sự sống và linh đạo cho gia đình. Mọi mục vụ cho gia đình được định hình từ bên trong và huấn luyện các thành viên Hội thánh tại gia bằng việc đọc Thánh Kinh và cầu nguyện theo hướng dẫn của Hội Thánh. Lời Chúa không chỉ là Tin mừng cho đời sống riêng tư cho một cá nhân, mà còn là tiêu chuẩn đánh giá và là ánh sáng giúp phân định những thách đố khác nhau mà các đôi vợ chồng và gia đình gặp phải” (Niềm Vui của Tình Yêu, số 227).

 

CN.3.PS.B

(Cv 3,13-19; 1Ga 2,1-5; Lc 24,35-48)

Thánh Kinh được Giáo Hội Việt Nam tiên khởi quan tâm. Cha Đỗ Quang Chính viết trong tập sách “Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt 1615-1773, trang 44 : “Vào khoảng năm 1670, cha Lữ-y (Louis Đoán (Đoan) ở Đàng Trong cũng soạn ít là cuốn văn bằng chữ Nôm ‘Sấm Truyền Ca’”.

Cha Trương Bá Cần viết trong tập sách “Lịch Sử Công Gáo Việt Nam, trang 224 : “Đây là linh mục Việt Nam thứ tư ở Đàng Trong. Trong thư đề ngày 20-6-1677, thừa sai Vachet viết : “Khi ở trong khu truyền giáo này về (trong tỉnh Quảng Ngãi), Đức giám mục hiệu tòa Beryle đã phong chức linh mục cho Louis Doan, một trong những thầy giảng kỳ cựu thông nho của vương quốc này… Trong thư gửi Đức Giám mục Lambert năm 1676, thừa sai Courtaulin viết : “Ngày lễ Sinh Nhật  Đức Mẹ (8-9), linh mục Louis Doan đã làm lễ mở tay ở Cacham trong nhà của người em út, được trang hoàng lộng lẫy, có khoảng 500 giáo hữu ưu tú của tỉnh này tham dự…Dưới bức thư của giáo hữu Đàng Trong gửi Đức Giáo hoàng  tháng 2 năm 1676 bằng Hán Nôm có tên linh mục Lu-y Đoán… Theo Paulus Tạo (báo Nam Kỳ Địa Phận) thì Phan Văn Cận  ở  Cái Mơn,  năm 1820, đã chép bản Sấm Truyền Ca, nói là của linh mục Lu-y Đoan soạn năm 1670, từ chữ Nôm ra chữ quốc ngữ. Bản quốc ngữ này được nhiều người sao chép lại chuyền tay nhau. Trong một tài liệu in Ronéô, ông Nguyễn Văn Trung cho biết là ông hiện có hai bản chép tay bằng chữ quốc ngữ… Linh mục Louis Đoán mất trước  tháng 6-1678”.

Cha Louis Đoan là con của ông Anrê, Thanh Chiêm (Phước Kiều). Cha Nguyễn Hồng kể : “Một hôm quan trấn, ‘kẻ thù nổi tiếng của đạo Ki-tô’ cho lính đến khám các nhà đàn anh trùm trưởng trong họ và tịch thu các ảnh tượng. Ông Anrê và hai người con nhỏ với một số đàn anh bị trói dẫn ra cửa Hội An và bị phạt trượng ở nơi công cộng” (Lịch Sử Truyền Giáo Ở Việt Nam, Tập I, tran 151).

Cha Nguyễn Hồng kể tiếp về ông An-rê : “Tháng 7-1644, Tống Thị ra lệnh cho quan trấn Quảng Nam bắt giam cụ già An-rê…và thầy An-rê (Phú Yên)… Vừa giải tới dinh, quan trấn liền ra lệnh tống giam thầy. Vào tù, thầy gặp cụ già An-rê đã bị giam trong đó và cũng mới bị bắt ban chiều. Cả hai suốt đêm trao đổi những lời khuyến khích thúc giục nhau can đảm chứng minh đạo và trông đợi chóng đến sáng để được dâng lễ hi sinh cùng nhau lên hưởng triều thiên hạnh phúc trên Thiên quốc” (Sđd, trang 166).

Cha Hồng viết : “Ít lâu sau cụ già An-rê được thả về, không được may mắn phúc tử đạo như thầy An-rê, nhưng suốt đời cụ với bao thử thách giam cầm, cụ thật xứng tên vị minh chứng đạo.

Cha viết lại lời cha Đắc Lộ khen ngợi cụ : ‘Cụ thuộc vào sổ những người theo đạo  trước hết, không những trong tỉnh Quảng Nam, quê quán của cụ, mà trong cả xứ Nam. Hơn nữa, cụ còn được hân hạnh là người chịu thử thách đầu tiên vì danh Chúa, không phải một lần mà bốn lần, mà lần nào cụ cũng can đảm chiến đấu, đứng về phía bên Thầy mình, vượt thắng những kẻ thù đức tin. Cụ là người đầu tiên được mang huy chương danh dự mà chúng tôi vẫn mệnh danh là thập giá của xứ Nam (gông), huân công của người chiến sĩ Công giáo. Mỗi lần giao tranh, cụ đều thoát hiểm, và tuy không được phúc tử đạo, nhưng cụ không bao giờ trốn tử đạo. Phu nhân của cụ tên là Inhaxu, bà sinh hạ được hai người con là cậu Emmanuel và Louis, thật là hai bức họa mô phỏng hoàn toàn hình ảnh nhân đức của bà. Nhà ông bà là nơi trú ẩn của những người có đạo trong thời bình cũng như khi gặp cơn gió bão. Ông cụ đã cất một ngôi nhà thờ rộng rãi, nhiều người ngoại đã được lãnh Phép Rửa ở đó, được giáo huấn và được lĩnh nhận ơn sức mạnh của các bí tích. Cũng vì thế hai ông bà và các con luôn bị người ta làm phiền nhiễu, và khu nhà cụ cũng nhiều lần  bị phá phách, nhưng tất cả những cái đó không làm cho cụ mất lòng mến Chúa Giê-su Ki-tô. Là một vị quan liêu có địa vị và được kính nể trong vùng Quảng Nam, cụ đã biết yêu ô nhục của thập giá hơn những vinh dự của xứ Ai Cập. Ông nghẻ đô tri, sau khi đã ngược đãi làm phiền cụ mãi, cũng phải chán tay, còn riêng cụ thì cụ vẫn mong muốn được chịu khổ vì đạo. Từ đó cụ được yên tĩnh sống ớ nhà, và theo những thư cuối cùng ở xứ Nam mà tôi nhận được viết vào khoảng năm 1648, thì cụ đã chết một cách thánh thiện tại tư gia của cụ, luôn bền vững trong đức tin và đầy vinh dự vì bao khổ nhục cụ đã chịu đựng và đạo Chúa” (Sđd, trang 168-169).

Bài đọc 1 và Bài Tin Mừng thánh lễ cũng đề cao Kinh Thánh.

Bđ1 : Sách Công Vụ Tông đồ viết :

Như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là : Đấng Ki-tô của Người phải chịu khổ hình” (CV 3,18).

Bài Tin Mừng : Thánh Luca tường thuật câu chuyện Chúa sống lại gặp hai môn đệ trên đường Emmau. Chúa nói : “Khi còn ở với anh em, Thầy đã nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ, và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói : “Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba , từ cõi chết sống lại” (Lc 24,44-46).

Đọc Lời Chúa trong những tuần lễ Phục sinh, chúng ta thấy vai trò  quan trọng của Kinh Thánh trong biến cố Chúa sống lại :

Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20,9).

Đức Giê-su nói với hai môn đệ trên đường Emmau :

Các anh chẳng hiểu gì cả ! Lòng trí các anh thật chậm tin vào lời các ngôn sứ ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,25-27).

Hai ông bảo nhau :

Dọc đường khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta chẳng bừng cháy lên sao ? (Lc 24,32).

Thánh Luca chẳng những kể lòng hai môn đệ bừng cháy khi Chúa giải thích Kinh Thánh, mà cuối cuộc hành trình còn nhận ra Chúa khi Chúa bẻ bánh. Liên kết hai phần Kinh Thánh và bẻ bánh, chúng ta nhận ra đó là thánh lễ gồm hai phần : Lời Chúa và Thánh Thể.

Bđ 2 : Thánh Gioan viết khuyên các tín hữu : “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sư nên hoàn hảo” (1Ga 2,4-5).

Thời đạo Chúa mới gieo vãi trên quê hương, cha ông chúng ta rất siêng năng sốt sắng. Cha Đắc Lộ kể : “Có những người ở xa 15 ngày đường đến để được xưng tội chịu lễ. Còn những người ở xa nhà thờ không quá năm hoặc sáu dặm đường thì không bao giờ chịu mất lễ các ngày lễ buộc. Họ đến từ chiều hôm trước, và ở mãi đến hôm sau, sau khi dự hết các nghi lễ rồi mới trở về…Thấy họ như thế thì tôi cảm động rơi lệ” (Nguyễn Hồng, Lịch Sử Truyền Giáo Ở Việt Nam, Tập 2, trang 116).

Cha Noel Quesson có lời cầu nguyện : “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con, các Ki-tô hữu, biết đói khát Kinh Thánh. Xin giúp chúng con đừng tới dâng lễ ‘trễ muộn’, bỏ qua phần phụng vụ Lời Chúa, luôn vắng mặt trong phần đầu thánh lễ, thời gian mà Chúa ‘mở trí cho chúng con hiểu Kinh Thánh’” (Lời Chúa Cho Mỗi Chúa Nhật Năm B, trang 129) (15-4-2018).

Linh mục Giuse Nguyễn Trung Thành