Tông Huấn Hãy Vui Mừng Hoan Hỉ (Gaudete Et Exsultate) – Từ Số 110 – 139


CHƯƠNG IV

NHỮNG DẤU HIỆU CỦA SỰ THÁNH THIỆN TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY

  1. Trong cái khung thánh thiện mà Các Mối Phúc và trình thuật Matthêu 25,31-46 cung ứng, tôi muốn đề cập vài dấu hiệu hay thái độ tâm linh mà thiển nghĩ là cần thiết nếu chúng ta muốn hiểu lối sống mà Chúa mời gọi mình. Tôi sẽ không dừng lại để giải thích những phương tiện thánh hóa mà chúng ta vốn biết: những phương pháp cầu nguyện khác nhau, các bí tích Thánh Thể và Hòa Giải giá trị khôn lường, việc dâng những hy sinh riêng, những hình thức khác nhau của lòng mộ đạo, việc linh hướng, và nhiều điều khác. Ở đây tôi chỉ đề cập một số khía cạnh của lời mời gọi nên thánh mà tôi hy vọng được nhìn nhận là có ý nghĩa đặc biệt.
  2. Các dấu hiệu mà tôi nhấn mạnh không phải là tổng hợp một mẫu thức thánh thiện, nhưng chúng là năm cách diễn tả hùng hồn về tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, mà tôi cho là có tầm quan trọng cách riêng trong bối cảnh một số nguy hiểm và những giới hạn của nền văn hóa hôm nay. Ta thấy trong nền văn hóa này một cảm thức hoang mang, đôi khi bạo lực, gây phân tán và suy nhược; tính chất tiêu cực và bi lụy; tính tự mãn sinh ra từ chủ nghĩa tiêu thụ; xu hướng cá nhân chủ nghĩa; và tất cả những hình thức linh đạo thay thế chẳng liên quan gì tới Thiên Chúa và đang chi phối khung cảnh tôn giáo hiện nay.

KIÊN TRÌ, NHẪN NẠI VÀ HIỀN HÒA

  1. Dấu hiệu lớn thứ nhất là đặt nền vững chắc nơi Thiên Chúa là Đấng yêu thương và nâng đỡ chúng ta. Nguồn sức mạnh nội tâm này giúp chúng ta kiên trì giữa những thăng trầm của cuộc sống, đồng thời đứng vững trước sự thù địch, sự phản bội và những nhược điểm nơi người khác. “Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai có thể chống lại chúng ta?” (Rm 8,31): đây là nguồn của sự bình an được thấy nơi các thánh. Trong thế giới bon chen, náo động và hối hả này của chúng ta, sức mạnh nội tâm ấy giúp ta có thể làm chứng cho sự thánh thiện xuyên qua sự nhẫn nại và kiên tâm làm việc thiện. Đó là một dấu hiệu của sự trung tín phát xuất từ tình yêu, vì những ai đặt niềm tin vào Thiên Chúa (pístis) thì cũng có thể trung thành với người khác (pistós). Họ không bỏ rơi người khác khi khốn khó; họ đồng hành với anh chị em mình khi lo âu và túng quẫn, cho dẫu điều này có thể không đem lại sự khuây khỏa ngay lập tức.
  2. Thánh Phaolô dạy các tín hữu Rôma không được lấy ác báo ác (x. Rm 12,17), không được tìm cách trả thù (c. 19), và không được để cho sự dữ thao túng mình, nhưng trái lại phải “vượt thắng sự dữ bằng sự thiện” (c. 21). Thái độ này không phải là một dấu hiệu của yếu nhược nhưng là của sức mạnh đích thực, vì chính Thiên Chúa “chậm giận nhưng vô cùng mạnh mẽ” (Nk 1,3). Lời Chúa dạy chúng ta “xua đuổi mọi chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, la lối thóa mạ, và mọi hành vi gian ác” (Ep 4,31).
  3. Chúng ta cần nhận ra và chiến đấu chống lại những khuynh hướng huang hăng và ích kỷ của mình, và không cho phép chúng mọc rễ. “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội; chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Khi cảm thấy bức xúc, chúng ta luôn luôn có thể bám vào chiếc neo cầu nguyện, và ta sẽ ở trong tay Thiên Chúa và nguồn của sự bình an. “Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa là bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ lòng trí anh em…” (Pl 4,6-7).
  4. Các Kitô hữu cũng có thể bị cuốn vào mạng lưới ngôn ngữ bạo lực trên mạng internet và những diễn đàn khác nhau của truyền thông kỹ thuật số. Ngay cả trong truyền thông Công giáo, có thể người ta cũng bỏ qua các giới hạn, việc bôi nhọ và vu khống có thể trở thành phổ biến, người ta có thể vứt bỏ mọi tiêu chuẩn đạo đức và sự tôn trọng thanh danh của người khác. Kết quả là một sự phân đôi nguy hiểm, vì có thể những gì người ta nói ở đó không được chấp nhận chỗ công khai, và người ta tìm trả đũa bằng cách đả kích người khác. Ở đây chúng ta thấy cách mà những miệng lưỡi không được kiểm soát, được ma quỉ châm ngòi, sẽ đốt cháy mọi sự (x. Gc 3,6).
  5. Sức mạnh nội tâm, là công trình của ân sủng, sẽ giữ chúng ta không bị cuốn đi bởi bạo lực vốn quá lan tràn trong đời sống hôm nay, vì ân sủng dập tắt thói kiêu hãnh và giúp người ta có thể hiền lành trong lòng. Các thánh không phung phí năng lực vào việc phàn nàn những điểm yếu của người khác; các ngài có thể giữ gìn miệng lưỡi trước những sai lỗi của anh chị em mình, và các ngài tránh thứ ngôn ngữ bạo lực chà đạp và ngược đãi người khác. Các thánh không đối xử nghiệt ngã với người khác; các ngài nhìn thấy người khác tốt hơn mình (x. Pl 2,3).
  6. Thật không tốt việc chúng ta nhìn người khác một cách khinh mạn như những quan tòa khắc nghiệt, việc ta khống chế người khác và luôn cố tìm cách dạy bảo họ. Điều này tự nó cũng là một dạng tinh vi của bạo lực. [95] Thánh Gioan Thánh Giá đề ra một nẻo đường khác hẳn: “Bạn hãy luôn mong muốn được mọi người dạy bảo mình, hơn là ham dạy bảo ngay cả những người bé nhỏ nhất”. [96] Và ngài thêm lời khuyên về cách tránh xa ma quỉ: “Hãy vui mừng về điều tốt của người khác như thể là của chính bạn, hãy mong ước người khác được ưu tiên hơn bạn trong mọi sự; và bạn hãy mong muốn như vậy với cả tấm lòng. Như thế bạn sẽ vượt thắng sự dữ bằng sự tốt lành, bạn xua đuổi ma quỉ, và có được một con tim đầy niềm vui. Hãy cố gắng thực hành điều này cách riêng đối với những người mà bạn ít ưa thích nhất. Hãy nhớ rằng nếu bạn không tự rèn luyện theo cách này, bạn sẽ không đạt được đức ái thực sự hay đạt được bất cứ sự tiến bộ nào trong đức ái”. [97]
  7. Lòng khiêm nhường cũng có thể bắt rễ trong trái tim xuyên qua những sự hạ mình. Nếu không hạ mình, sẽ không có khiêm nhường hay thánh thiện. Nếu bạn không thể chịu sỉ nhục và chấp nhận hạ mình, thì bạn không khiêm nhường và không ở trên nẻo đường thánh thiện. Sự thánh thiện mà Thiên Chúa ban cho Giáo hội đến từ sự tự hạ của Chúa Con. Người là con đường. Việc hạ mình làm cho bạn giống Chúa Giêsu; nó là khía cạnh thiết yếu của việc bắt chước Đức Kitô. Vì “Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho những ai muốn dõi bước theo Người” (1Pr 2,21). Về phần Người, Đức Kitô cho thấy sự khiêm nhường của Chúa Cha, Đấng hạ cố để đi trong hành trình với dân Ngài, chịu đựng những sự bất trung và những phàn nàn kêu ca của họ (x. Xh 34,6-9; Kn 11,23 – 12,2; Lc 6,36). Vì lý do này mà các Tông đồ, sau khi bị sỉ nhục, đã vui mừng hân hoan “vì thấy mình được xứng đáng chịu nhục mạ vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).
  8. Ở đây tôi không đang duy chỉ nói đến những trường hợp tuẫn đạo, mà cả về những sự hạ mình hằng ngày của những người giữ thinh lặng để cứu vãn gia đình mình, những người mau mắn khen ngợi người khác hơn là khoác lác về chính mình, hay những người chọn những công việc hèn mọn nhất, và đôi khi ngay cả chọn chịu sự bất công để dâng cho Chúa. “Nếu làm việc lành và vì đó mà phải khổ, thì anh em được Chúa ưng nhận” (1Pr 2,20). Điều này không có nghĩa là đi loanh quanh với đôi mắt cứ nhìn xuống đất, chẳng nói chẳng rằng, và tránh gặp gỡ người khác. Có những lúc, chính vì người ta tự do khỏi tính ích kỷ mà họ có thể dám bày tỏ sự bất đồng một cách nhẹ nhàng, dám đòi hỏi công lý hay bênh vực kẻ yếu trước kẻ mạnh, ngay cả dù điều này có thể làm họ phải chịu búa rìu dư luận.
  9. Tôi không nói rằng sự hạ mình như thế thì thích thú, vì nếu vậy hóa ra là bệnh thống khoái, nhưng tôi chỉ muốn nói rằng đó là một cách để bắt chước Chúa Giêsu và để lớn lên trong mối kết hợp với Người. Trên bình diện thuần túy tự nhiên thì người ta không thể hiểu điều này, và thế gian chế nhạo bất cứ ý niệm nào như thế. Nhưng đây là một ân sủng đạt được trong cầu nguyện: “Lạy Chúa, khi con bị sỉ nhục, xin Chúa giúp con biết rằng đó là con đang bước theo chân Chúa”.
  10. Để hành động theo cách ấy, người ta cần có một trái tim được lấp đầy bình an của Đức Kitô, được giải phóng khỏi tính hung hăng do lòng tự cao tự phụ. Chính niềm bình an này, là hoa trái của ân sủng, giúp chúng ta có thể kiên vững trong niềm tin tưởng vào sự thiện, “dù tôi đi qua thung lũng tối tăm của sự chết” (Tv 23,4) hay “dù cả một đạo quân vây đánh” (Tv 27,3). Đứng vững trong Chúa là Đá Tảng, chúng ta có thể hát lên: “Thư thái bình an, vừa nằm con đã ngủ; vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn” (Tv 4,9). Tắt một lời, Đức Kitô “là sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14); Người đến để “dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,79). Như Người đã nói với Thánh Faustina Kowalska: “Nhân loại sẽ không có hòa bình trừ phi người ta tin tưởng hướng về lòng thương xót của Ta”. [98] Vì thế, chúng ta đừng đâm đầu vào cám dỗ tìm kiếm sự an toàn trong thành công, trong lạc thú phù du, trong của cải, trong quyền lực trên người khác hay trong địa vị xã hội. Chúa Giêsu nói: “Thầy ban cho anh em sự bình an của Thầy; không phải như sự bình an mà thế gian ban tặng” (Ga 14,27).

NIỀM VUI VÀ KHIẾU HÀI HƯỚC

  1. Các thánh không rụt rè, rầu rĩ, chua chát hay u uất, cũng không mang một vẻ mặt thê thảm, các ngài rất vui tươi và đầy khiếu hài hước lành mạnh. Mặc dù rất thực tế, các ngài vẫn phản chiếu một tinh thần tích cực và hy vọng. Đời sống Kitô hữu thì “đầy niềm vui trong Thánh Thần” (Rm 14,17), vì “hoa quả thiết yếu của đức ái là niềm vui; vì ai yêu thương thì vui mừng được kết hợp với người mình yêu… đức ái đem lại niềm vui”. [99] Được nhận lãnh món quà tuyệt vời là lời Thiên Chúa, chúng ta nưng niu nó “giữa bao nỗi gian truân, với niềm vui mà Thánh Thần ban tặng” (1Tx 1,6). Nếu chúng ta để cho Chúa lôi kéo ta ra khỏi vỏ ốc của mình và thay đổi đời sống mình, thì chúng ta có thể đáp lời Thánh Phaolô kêu gọi: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa; tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên!” (Pl 4,4).
  2. Các ngôn sứ đã loan báo về thời của Chúa Giêsu, là thời mà chúng ta đang sống đây, như một mạc khải của niềm vui. “Hãy reo hò mừng rỡ!” (Is 12,6). “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên thật mạnh mẽ!” (Is 40,9). “Núi non hãy bật tiếng hò reo, vì Đức Chúa ủi an dân Ngài đã chọn, và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Ngài” (Is 49,13). “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỉ, Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Ngài là Đấng Toàn Thắng” (Dcr 9,9). Chúng ta cũng không quên huấn dụ của Nêhêmia: “Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì của anh em!” (8,10).
  3. Đức Maria, nhận ra tính mới mẻ mà Đức Giêsu mang đến, đã reo lên: “Thần trí tôi hoan hỉ” (Lc 1,47), và chính Đức Giêsu đã “hoan hỉ trong Thánh Thần” (Lc 10,21). Khi Người đi qua, “toàn thể dân chúng vui mừng” (Lc 13,17). Sau khi Chúa sống lại, bất cứ nơi đâu các môn đệ đi tới đều có “đầy niềm vui” (Cv 8,8). Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta: “Anh em sẽ ưu sầu, nhưng nỗi ưu sầu của anh em sẽ biến thành niềm vui… Thầy sẽ đến với anh em và lòng anh em sẽ vui mừng, và không ai có thể tước mất niềm vui của anh em” (Ga 16,20.22). “Thầy nói với anh em những điều này, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và để niềm vui của anh em được trọn vẹn” (Ga 15,11).
  4. Những thời khắc khó khăn có thể xảy đến, khi mà thập giá xuất hiện, nhưng không gì có thể phá hủy niềm vui siêu nhiên vốn “thích nghi và thay đổi, nhưng luôn luôn bền bĩ, ngay cả như một tia sáng phát xuất từ sự xác tín trong lòng chúng ta rằng, sau tất cả, chúng ta được yêu thương vô hạn”. [100] Niềm vui ấy mang lại sự an toàn sâu xa, niềm hy vọng vững chắc, và một niềm vui thỏa thiêng liêng mà thế gian không thể hiểu hay quí trọng.
  5. Niềm vui của Kitô hữu thường đi kèm với một cảm thức hài hước. Chẳng hạn, chúng ta thấy điều này rõ ràng nơi các Thánh Thomas More, Vincent de Paul và Philip Neri. Còn hài hước xấu thì không phải là dấu hiệu của sự thánh thiện. “Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn” (Gv 11,10). Chúng ta nhận dồi dào mọi sự từ Chúa “để hưởng dùng” (1Tm 6,17), đến nỗi sự buồn phiền có thể là một dấu hiệu của thái độ vô ơn. Chúng ta có thể quá bận tâm với chính mình đến mức không thể nhận ra những quà tặng của Thiên Chúa. [101]
  6. Với tình yêu của người cha, Thiên Chúa bảo chúng ta: “Con ơi, hãy làm cho đời con tốt đẹp… Đừng từ chối không hưởng một ngày vui” (Hc 14,11.14). Ngài muốn chúng ta có thái độ tích cực, biết ơn và thoải mái: “Ngày gặp may mắn, hãy cứ vui hưởng… Thiên Chúa dựng nên con người vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ lại đi tìm đủ chuyện rắc rối quanh co” (Gv 7,14.29). Dù gặp trường hợp nào, chúng ta cũng giữ thái độ tích cực và bắt chước Thánh Phaolô: “Tôi đã học biết vui lòng với điều tôi có” (Pl 4,11). Thánh Phanxicô Assisi đã sống tinh thần này; ngài có thể tràn ngập lòng biết ơn trước một mẩu bánh mì khô, hay hớn hở ngợi khen Thiên Chúa chỉ vì một thoáng gió mát mơn trớn qua khuôn mặt mình.
  7. Đây không phải là niềm vui được quảng bá nơi nền văn hóa tiêu thụ và cá nhân chủ nghĩa ngày nay. Chủ nghĩa tiêu thụ chỉ làm phù nề trái tim. Nó có thể trao lạc thú chóng qua khi này khi khác, nhưng đó không phải là niềm vui. Ở đây tôi đang nói về một niềm vui được người ta sống trong hiệp thông, nó chia sẻ và được chia sẻ, vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35) và “Thiên Chúa yêu quí người biết trao ban một cách vui tươi” (2Cr 9,7). Tình huynh đệ sẽ gia tăng niềm vui nơi chúng ta, vì nó có thể làm cho ta biết vui mừng về điều tốt lành của người khác: “Hãy vui với người vui” (Rm 12,15). “Chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu mà anh em lại mạnh” (2Cr 13,9). Mặt khác, khi chúng ta chỉ “tập trung chú ý vào các nhu cầu của mình, thì đó là chúng ta đang tự phạt mình phải chịu một cuộc sống không có niềm vui”. [102]

DŨNG CẢM VÀ SAY MÊ

  1. Thánh thiện cũng là parrhesía: đó là lòng dũng cảm, một thôi thúc loan báo Tin Mừng và để lại dấu ấn trong thế giới này. Nhằm giúp chúng ta làm điều này, chính Chúa Giêsu đến và bảo chúng ta một lần nữa, cách trầm tĩnh nhưng mạnh mẽ rằng: “Đừng sợ” (Mc 6,50). “Thầy ở cùng anh em mọi ngày, cho đến tận thế” (Mt 28,20). Những lời này thúc giục ta đi ra và phục vụ với cùng lòng can đảm mà Chúa Thánh Thần đã khơi lên nơi các Tông đồ, thúc đẩy các ngài loan báo Chúa Giêsu Kitô. Lòng dũng cảm, sự nhiệt tâm, sự tự do lên tiếng, niềm hăng say tông đồ, tất cả những điều này được bao gồm trong từ parrhesía. Thánh Kinh cũng dùng từ này để diễn tả sự tự do của một đời sống mở ra cho Thiên Chúa và cho tha nhân (x. Cv 4,29; 9,18; 28,31; 2Cr 3,12; Ep 3,12; Dt 3,6; 10,19).
  2. Chân Phước Phaolô VI, khi đề cập đến những trở ngại đối với việc loan báo Tin Mừng, đã nói về tình trạng thiếu lòng hăng say (parrhesía) vốn “nghiêm trọng hơn nhiều, vì nó đến từ bên trong”. [103] Biết bao lần chúng ta bị cám dỗ giữ thuyền sát bờ! Nhưng Chúa mời gọi chúng ta chèo ra chỗ nước sâu và thả lưới (x. Lc 5,4). Người mời gọi chúng ta dâng hiến đời mình để phục vụ Người. Bám chặt Người, chúng ta được thúc đẩy đặt tất cả đặc sủng của mình để phục vụ tha nhân. Ước gì chúng ta luôn luôn cảm nhận được tình yêu của Chúa thôi thúc (2Cr 5,14) và nói như Thánh Phaolô: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16).
  3. Bạn hãy nhìn Chúa Giêsu. Lòng trắc ẩn sâu xa của Người vươn ra chạm tới những người khác. Người không lưỡng lự, nhút nhát hay ngượng ngùng, như điều thường thấy nơi chúng ta. Chúa Giêsu thì hoàn toàn ngược lại. Lòng trắc ẩn của Người làm cho Người chủ động đi ra rao giảng và sai những người khác nữa vào một sứ mạng chữa trị và giải phóng. Chúng ta hãy nhìn nhận sự yếu đuối của mình, nhưng cho phép Chúa Giêsu nắm lấy, và cũng sai cả chúng ta nữa vào sứ mạng. Chúng ta yếu, nhưng chúng ta nắm giữ một kho tàng có thể làm triển nở mình và làm cho những ai đón nhận nó được nên tốt hơn và hạnh phúc hơn. Lòng dũng cảm và sự can đảm của người tông đồ là một phần thiết yếu của sứ mạng.
  4. Parrhesía là một ấn tích của Chúa Thánh Thần; nó xác nhận tính chân thực của lời chúng ta rao giảng. Nó là một sự chắc chắn đầy hân hoan dẫn chúng ta tới vinh dự trong Tin Mừng mà chúng ta loan báo. Nó là một niềm tin tưởng không lay chuyển đặt nơi vị Chứng Nhân trung thành, là Đấng trao cho chúng ta sự chắc chắn rằng không gì có thể “tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa” (Rm 8,39).
  5. Chúng ta cần sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, để không bị tê liệt do sợ hãi hay do thận trọng quá mức, để chúng ta không trở thành quen sống trong phạm vi an toàn. Hãy nhớ rằng những không gian khép kín thì ẩm mốc và không tốt cho sức khỏe. Khi các Tông đồ bị cám dỗ cho phép những nguy hiểm và đe dọa làm cho mình què quặt, các ngài đã cùng nhau cầu nguyện và kêu xin parrhesía: “Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn” (Cv 4,29). Kết quả là, “khi họ cầu nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4,31).
  6. Giống như ngôn sứ Giôna, chúng ta thường xuyên bị cám dỗ trốn tránh ở một chỗ trú an toàn. Chỗ trú ấy có thể mang nhiều tên: cá nhân chủ nghĩa, duy thiêng liêng, sống trong một thế giới nhỏ, tình trạng nghiện, chủ trương không khoan nhượng, bác bỏ những ý tưởng và những phương pháp mới, giáo điều, hoài cổ, bi quan, nấp đàng sau các luật lệ và qui định. Chúng ta có thể đề kháng việc rời bỏ một cách thế làm việc quen thuộc và dễ dãi. Nhưng những thách đố liên quan thì có thể giống như cơn bão ấy, con cá voi ấy, con sâu làm héo dây bầu ấy, hay như cơn gió và mặt trời thiêu đốt cái đầu trần của Giôna. Đối với chúng ta, cũng như đối với Giôna, chúng có thể giúp đưa ta trở về với vị Thiên Chúa ân cần trìu mến, Đấng mời gọi chúng ta không ngừng bắt đầu lại hành trình của mình.
  7. Thiên Chúa là sự mới mẻ vĩnh cửu. Ngài không ngừng thúc đẩy chúng ta bắt đầu lại, vượt quá những gì quen thuộc, đi tới những vùng ngoại biên và xa hơn nữa. Ngài đưa chúng ta tới những chỗ mà con người bị thương tích nhiều nhất, những chỗ mà những con người nam nữ, ẩn dưới vẻ của một nề nếp ổn định, vẫn tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho vấn nạn về ý nghĩa đời sống. Thiên Chúa không sợ! Nơi Ngài không có sự sợ hãi! Ngài luôn lớn hơn các kế hoạch và các sắp xếp của chúng ta. Không sợ các ngoại biên, chính Ngài đã trở nên một ngoại biên (x. Pl 2,6-8; Ga 1,14). Vì thế nếu ta dám đi tới những vùng ngoại biên, ta sẽ gặp Ngài ở đó; thật vậy, Ngài đã ở sẵn đó. Chúa Giêsu đang ở sẵn đó, trong trái tim của các anh chị em chúng ta, trong xác thân bị thương tích của họ, trong những lo lắng và những muộn phiền sâu xa của họ. Người ở sẵn đó.
  8. Quả đúng là chúng ta cần mở cửa trái tim mình cho Chúa Giêsu, Đấng đang đứng và gõ cửa (x. Kh 3,20). Đôi khi tôi lại tự hỏi, có lẽ Chúa Giêsu đang ở bên trong chúng ta và Người gõ để được ta cho phép Người ra ngoài, thoát khỏi cái tình trạng qui ngã đã bốc mùi thiu thối của chúng ta. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu “đi qua các thành thị và làng mạc, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Lc 8,1). Sau Phục sinh, khi các môn đệ ra đi mọi hướng, Chúa đã đồng hành với họ (x. Mc 16,20). Đó là điều xảy ra như kết quả của sự gặp gỡ đích thực.
  9. Tính tự mãn rất có sức lôi cuốn; nó bảo chúng ta rằng chẳng có ý nghĩa gì việc cố gắng thay đổi mọi sự, rằng chúng ta không thể làm gì được, bởi vì đây là cách làm xưa nay vẫn thế, và dù sao thì chúng ta vẫn luôn có thể sống còn! Do thói quen mà chúng ta không còn đứng lên đương đầu với sự dữ nữa. Chúng ta “cho phép mọi sự cứ như vậy”, hay cứ như những kẻ khác quyết định nó phải vậy. Nhưng chúng ta cần để cho Chúa đánh thức mình khỏi cơn mê, giải thoát ta khỏi sự ì ạch của mình. Chúng ta hãy suy nghĩ lại cách làm thông thường của mình; chúng ta hãy mở mắt và tai, và nhất là mở con tim ra, để không tự hài lòng về mọi sự như hiện trạng của chúng, nhưng để được khuấy động bởi lời sống động và hữu hiệu của Chúa Phục sinh.
  10. Chúng ta được thôi thúc để hành động theo gương của tất cả các linh mục, tu sĩ, giáo dân dấn thân cho việc rao giảng và phục vụ tha nhân với lòng trung thành lớn lao, họ thường phải liều mạng sống mình, và chắc chắn họ phải hy sinh sự dễ chịu trong đời sống. Chứng tá của họ nhắc chúng ta rằng Giáo hội cần không phải những quan chức bàn giấy cho bằng là những thừa sai đầy nhiệt huyết, hăng hái chia sẻ đời sống thực. Các thánh gây ngạc nhiên cho chúng ta, các ngài làm ta áy náy, vì bằng đời sống của mình, các ngài thúc bách chúng ta dứt bỏ một tình trạng xoàng xĩnh buồn tẻ và ảm đạm.
  11. Chúng ta hãy xin ơn Chúa để không ngần ngừ khi Chúa Thánh Thần mời gọi mình bước tới. Chúng ta hãy xin có được sự can đảm của các tông đồ để chia sẻ Tin Mừng với người khác, và ngừng việc biến đời sống Kitô giáo của mình thành một nhà bảo tàng những ký ức. Trong mọi hoàn cảnh, xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chiêm ngắm lịch sử trong ánh sáng của Chúa Giêsu Phục sinh. Nhờ đó, Giáo hội sẽ không đứng im bất động, nhưng không ngừng tiếp đón những điều ngạc nhiên của Chúa.

(Chương 4 còn tiếp)

Lm. Lê Công Đức dịch

Nguồn: Website Xuân Bích Việt Nam