Chúa Nhật IV Thường Niên – Năm C


CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN – NĂM C

30-1-2022

GIÁO HUẤN SỐ 10

NHỮNG NẺO ĐƯỜNG CỦA TUỔI TRẺ

Tuổi trẻ và dân thân (tt)

Như trong phép lạ của Chúa Giê-su, bánh và cá được cung cấp bởi người trẻ sẽ có thể hóa thành nhiều (x.Ga 6,4-13). Như trong dụ ngôn, những hạt giống bé nhỏ được gieo bởi  người trẻ sẽ có thể đem lại một vụ mùa to lớn (x. Mt 13, 23-32). Tất cả những điều này nhận nguồn mạch sống động nơi Thánh Thể, trong đó bánh và rượu của chúng ta được chuyển hóa để ban cho ta sự sống vĩnh cửu. Người trẻ đối mặt với những thách đố to lớn và gay go. Với niềm tin vào Chúa Phục sinh, họ có thể đương đầu với những thách đố ấy trong sáng tạo và trong hy vọng, luôn luôn sẵn sàng phục vụ, như những gia nhân tại đám cưới kia, là những người cộng tác trong phép lạ đầu tiên của Chúa Giê-su mà chính họ cũng không ngờ. Họ đã chẳng làm gì ngoài việc vâng theo lời của Đức Mẹ: “Người bảo gì, hãy làm theo như vậy” (Ga 2,5). Nhân hậu, sáng tạo và hy vọng sẽ làm cho đời sống triển nở (Tông huấn Đức Ki-tô hằng sống, số 173).

——————

CN 4 TN NĂM C

(Gr 1,4-5.17-19; 1Cr 12,31-13,13; Lc 4,21-30)

Câu chuyện Chúa Giêsu về Nadarét, quê quán của mình, được tường thuật trong cả ba sách Tin Mừng thánh Mat-thêu, thánh Mac-cô và thánh Lu-ca, nhưng sách thánh Luca dài hơn. Bà Monique Piettre thì  cho rằng: Chúa Giêsu về quê hương không chỉ một lần, mà là hai lần. Bài tường thuật của thánh Luca đã gộp cả hai lần làm một (Comprendre La Parole. C, p.192). Vì thế Giáo hội đã chia đọc 2 Chúa nhật: Chúa nhật trước (CN 3 TN Năm C) là lần về thứ nhất, lần “vinh qui bái tổ”, dân làng ca tụng, ngợi khen. Chúa nhật này là lần về thứ hai, lần về thứ hai này bị dân làng ghen ghét, chống đối. Bị ghen ghét, chống đối, đó chính là thân phận của những người làm việc cho Chúa trong mọi thời, thời ngôn sứ Giê-rê-mi-a cũng như thời Chúa Giêsu, thời các thừa sai Việt Nam, và cả thời nay.

Bài đọc 1 (Gr1,4-5.17-19): Bđ1 mô tả thân phận khổ đau của ngôn sứ Giêrêmia. Ngôn sứ chào đời quãng năm 650 tCN tại A-na-thốt, cách Giêrusalem độ 5 cây số. Gia đình ông là tư tế. Năm 24 tuổi, ông được Thiên Chúa gọi làm ngôn sứ. Ông thi hành sứ vụ suốt bốn đời vua liên tiếp, mãi tới sau biến cố đau thương năm 587 tCN, thành Giêrusalem bị tàn phá. Cuối cùng ông bị một nhóm qúa khích lôi sang Ai Cập và chết tại đó. Sách “Các Ngôn Sứ” của Nhóm CGKPV viết như sau : “Tính tình ông dịu dàng và nhạy cảm, vậy mà ông được gọi để nhổ, để lật, để hủy, để phá (1,10). Thích yên hàn mà cứ phải đấu tranh, để cho người ta chống đối, cho cả nước gây gỗ với mình (15,10). Yêu quê hương, yêu đất nước, mà không được cầu nguyện cho đồng bào (14,11), cứ phải cổ vũ sự thần phục ngoại bang, để bị lên án là kẻ phản quốc (20,8; 38,4)… Ông phải sống như một kẻ đơn chiếc nhất trên đời, luôn phải ngồi riêng một mình (15,17). Đúng là một thảm kịch !…Ông phàn nàn với Chúa: Tại sao con cứ phải khổ hoài ? (15,18)… Nhưng tất cả chỉ đơn giản để nói rằng: cuộc đời ông bị xâu xé bởi một sứ mệnh mà ông không thoái thác được” (1996, trang 224).

Bài Tin Mừng (Lc 4,21-30): Và nay đến lượt Chúa Giêsu. Họ chống đối Chúa. Thánh Luca kể ở cuối bài TM: “Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi – Họ kéo người lên tận đỉnh núi, để xô người xuống vực” (4,28-29). Trong khi thánh Mátthêu và thánh Luca ghi lại lời Chúa Giêsu : “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình (4,24), thì thánh Máccô lại ghi: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4). Đối với thánh Máccô, không chỉ  người đồng hương, mà cả gia đình bà con thân thuộc cũng chống đối, khinh rẻ.

Tại sao người đồng hương Nadarét và bà con Chúa Giêsu đi ngược lại với câu người Việt thường nói “một người làm quan cả họ được nhờ” ?

Cha Brown, nhà Thánh Kinh nổi tiếng của Mỹ, viết : “Đế cắt nghĩa tại sao Chúa Giêsu Nadarét trải qua phần lớn cuộc đời rao giảng tại Ca-phác-na-um, thánh Luca bắt đầu kể câu chuyện “Người Nadarét từ khước Chúa Giêsu”. Vì thế câu chuyện đã được kể đầu đời hoạt động; còn ở sách thánh Máccô và thánh Mátthêu được kể muộn hơn” (An Introduction To The New Testament, t.237).

Cha Karris thì cho rằng: “Đề tài ‘Ngôn sứ bị từ khước’ làm nổi bật lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa là Người vẫn tiếp tục gửi các ngôn sứ đến với dân phản loạn” (The New Jerome Biblical Caommentary, t.690).

Với ông Samuel Abogunrin lý do là: “Một vài người nghe Chúa Giêsu giảng thì thán phục, còn phần đông thì tự hỏi: ‘Ông ta nghĩ ông ta là ai, là Đấng Me-si-a phải không?’. Họ không thể chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Mesia, nhất là Ngài không làm phép lạ nào. Chúa Giêsu là con thánh Giuse thợ mộc, Mẹ Ngài và anh em Ngài cũng có mặt ở hội đường đây, làm sao Chúa Giêsu có thể là Đấng Mêsia được ?” (The International Bible Commentary, t.1382).

Cha Hoàng Đắc Anh cũng đồng quan điểm: “Họ lại thắc mắc, vì Đức Giêsu cùng quê với họ là Nadarét, mà làng Nadarét có gì đáng nói đâu ? Thứ đến Đức Giêsu lại thuộc giới lao động tay chân” (Tin Mừng theo Thánh Luca, t.98).

Còn cha Noel Quesson cũng cho là vì lý lịch tầm thường: “Cảm tưởng đầu tiên là người ta lấy làm hài lòng về giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng rồi người ta không chấp nhận, vì Người tầm thường, chả là gì, chỉ là “con ông Giuse thợ mộc” (Parole De Dieu, p.161)

Ông William Barclay thì cho là: “Điều làm cho dân làng giận dữ là lời khen ngợi dân ngoại của Chúa Giêsu. Người Do Thái vẫn coi  mình là dân Thiên Chúa và họ kinh dể các dân tộc khác. Họ nghĩ rằng: “Thiên Chúa dựng nên dân ngoại để làm dầu đốt hỏa ngục”. Thế mà ở đây chàng thanh niên trẻ tuổi Giêsu lại cả gan giảng: dân ngoại được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt. Từ đầu đến cuối bài giảng là những gì họ chưa bao giờ nghe” (The Gospel of Luke, t.48).

Từ ngôn sứ Giêrêmia đến Chúa Giêsu và rồi đến các nhà truyền giáo đầu tiên của Giáo hội Việt Nam, tất cả đều gặp chống đối, loại bỏ.

Từ Macao, sau 12 ngày vượt biển, hai cha Buzomi, người Ý và cha Cavalho, người Bồ, cùng hai thầy trợ sĩ José và Paolo, người Nhật, dòng Tên, đến Đà Nẵng ngày 18-1-1615. Lễ phục sinh năm đó, các cha đã rửa tội được 10 người, 10 bông hoa đầu mùa. Năm 1616 cha Cavalho trở về để sang Nhật và cha đã được phúc tử đạo tại đó ngày 24-2-1624. Thay cha Cavalho là cha Fernandes, người Bồ. Cánh đồng truyền giáo ngày càng chín vàng, năm sau, năm 1617, bề trên dòng Tên ở Macao gửi thêm hai cha Francisco de Pina và Francisco Barreto và một thầy trợ sĩ Dias. Được mấy tháng hai cha Fernandes và Barreto được sai sang Camphuchia, chỉ còn hai cha Buzomi và Pina cùng các thầy trợ sĩ.

Mùa thu năm 1617, sau hai năm tới Đà Nẵng, trời hạn hán. Các thầy cúng tổ chức lễ cầu mưa, nhưng trời vẫn không mưa. Các thầy cho rằng trời hạn hán là vì các thần nổi giận, thấy dân chúng theo đạo mới mà bỏ không đi chùa chiền, nên phải đuổi các cha các thầy đi, thì các thần mới hết giận mà cho mưa xuống. Dân chúng tin theo, kéo đến đòi chúa Sãi phải đuổi các ngài ra khỏi nước. Chúa Sãi mời các ngài tới và nói rằng: ông vẫn qúi mến các ngài, nhưng để xoa dịu lòng giận dữ của dân chúng, xin các ngài ra đi khỏi nước. Các ngài xuống thuyền về Macao. Thuyền ra khơi chẳng may gặp bão dạt vào bờ. Các ngài không dám ra mặt phải trốn vào rừng, sống lén lút khổ sở. Cha Buzomi bị đau nặng gần chết. Giáo dân muốn đem về nhà chữa chạy, nhưng người ngoại dọa giết. Chính lúc tưởng như bó tay tuyệt vọng, thì Chúa đến cứu. Quan Qui Nhơn đi ra Quảng Nam có việc, khi về đã đem cha Buzomi và thầy Dias về Qui Nhơn; còn cha Pina và hai thầy Jose, Paolo được người Nhật đem về nhà của họ ở Hội An.

Cha Buzomi được quan trấn Qui Nhơn rất thương. Tháng 7-1618 quan trấn làm cho cha và thầy một ngôi nhà gỗ rộng rãi tại Nước Mặn, Gò Thị ngày nay. Rồi ông dùng voi đưa các ngài đến ở. Cha được tự do giảng đạo. Thỉnh thoảng quan trấn còn sai người đem thực phẩm đến biếu các ngài, không để các ngài thiếu thốn. Hơn nữa ông sai 1000 thợ khiêng cột kèo đã làm sẵn dựng cho các ngài một nhà thờ. Chỉ trong một ngày đã dựng xong ngôi thánh đường đầu tiên ở Qui Nhơn.

Sau một năm quan trấn bị bệnh qua đời. Cha Buzomi và các thầy sợ sẽ bị phao tin rằng: vì quan thương các ngài, nên Trời Phật đã phạt quan chết. Thật là may, ông Đề là con cả của quan vẫn thương cha và thầy. Thấy con của quan thương, dân chúng không dám phao tin đồn. Trong đám tang, các ngài đã tới nhà quan phúng điếu. Ong Đề còn cho voi chở các ngài về.

Qua ba bài đọc của thánh lễ hôm nay, người tông đồ, người làm việc cho Chúa, cho nhà Chúa luôn luôn gặp, khó khăn, đau khổ. Chính Chúa Giêsu cũng đã lặp lại lời thánh vịnh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây phải thiệt vào thân” (Ga 2,17).

Bài đọc 2 (1Cr 12,31-13,13): Quả thật vì Chúa, vì đồng loại mà người tông đồ phải thiệt thân. Tóm lại vì yêu, như thánh Phaolô viết trong bài đọc 2: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả” (1Cr 13,4-6).

Thơ kết:

Nghe qua dân chúng giận sôi

Quyết lôi Người đến đỉnh đồi mà xô

Giữa cơn náo loạn hàm hồ

Chúa thong thả gọi môn đồ ra đi

(Lm. Nguyễn Xuân Văn, Sứ Điệp Tình Thương, trang 67)

Cầu nguyện

Lạy Chúa,

Xin cho tất cả chúng con biết hết lòng thờ phượng Chúa,

và thành tâm yêu mến mọi người.

Linh mục Giuse Nguyễn Trung Thành