Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm C


 CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG.

Ngày 22/12/2024

Giáo xứ An Ngãi Đông và Giáo xứ Hòa Minh Chầu Thánh Thể.

 

GIÁO HUẤN SỐ 4

Tông huấn HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ

TRONG CỘNG ĐOÀN (tiếp theo)

 “Một cộng đoàn biết trân quí những chi tiết nhỏ của tình yêu, trong đó các thành viên quan tâm đến nhau, tạo ra một môi trường cởi mở và có sức loan báo Tin Mừng, đó là một nơi mà Chúa Phục sinh hiện diện, thánh hóa nó theo kế hoạch của Chúa Cha. Có những lúc mà nhờ một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa, chúng ta được ban cho – giữa các chi tiết nhỏ nhặt kia – những kinh nghiệm đầy an ủi của Thiên Chúa. “Một tối mùa đông, con đang làm việc bổn phận bé nhỏ của con như thường lệ… Thình lình, con nghe từ xa tiếng đàn du dương. Rồi con nhìn thấy một phòng khách sáng rực ánh đèn, trang hoàng rực rỡ, với nhiều quí nương trong trang phục quí phái đang trò chuyện và trao cho nhau những lời khen ngợi đủ kiểu, những trầm trồ tán tụng của trần thế. Rồi con quay lại nhìn người chị em đau ốm mà con đang săn sóc. Ở đây con không nghe thấy tiếng nhạc du dương, mà thay vào đó chỉ nghe những tiếng than thở bất chợt của chị ấy… Con không thể diễn tả thành lời điều mình cảm nghiệm trong linh hồn; điều con biết chắc đó là Chúa đã chiếu sáng nó với những tia sáng của sự thật vượt quá vẻ rực rỡ nhưng mờ mịt của những lễ hội thế gian mà con không thể tin là hạnh phúc của mình”. (Tông huấn Hãy Vui mừng Hoan hỉ, số 145)

 

PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

(Mk 5,1-4; Dt 10,5-10; Lc 1,39-45)

 

Bài Ðọc I: Mk 5, 2-5a

“Nơi ngươi sẽ xuất hiện Ðấng thống trị Israel”.

Bài trích sách Tiên tri Mi-kha.

Ðây lời Chúa phán: “Hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giu-đa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Ðấng thống trị Ít-ra-en, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người, sẽ trở về với con cái Ít-ra-en. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 79, 2ac và 3b. 15-16. 18-19

Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4).

Xướng: Lạy Ðấng chăn dắt Ít-ra-en, xin hãy lắng tai nghe! Chúa ngự trên Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con.

Xướng: Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại, từ trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành mà Ngài đã củng cố cho mình.

Xướng: Xin Chúa ra tay bang trợ người ở bên tay hữu Chúa, con người mà Chúa đã củng cố cho mình. Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa. Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Người.

Bài Ðọc II: Dt 10, 5-10

“Này đây con đến để thi hành thánh ý Chúa”.

Bài trích thơ gởi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, khi đến trong thế gian, Chúa Giê-su phán: “Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi nói: ‘Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách’”.

Sách ấy bắt đầu như thế này: “Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật. Ðoạn Người nói tiếp: Lạy Chúa, này đây con đến để thi hành thánh ý Chúa”. Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau. Chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giê-su Ki-tô một lần là đủ.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 1, 38

Alleluia, alleluia! “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. – Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 39-45

“Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca.

Ngày ấy, Ma-ri-a chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giu-đê-a. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà I-sa-ve. Và khi bà I-sa-ve nghe lời chào của Ma-ri-a, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà I-sa-ve được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”.

Ðó là lời Chúa.

 

SUY NIỆM I

Phước lành Thiên Chúa

Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang

Như chúng ta biết, sau khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã hứa ban một Đấng Cứu thế qua lời tuyên phán với Eva: “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người phụ nữ. Người phụ nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi chỉ rình cắn trộm gót chân người”. Vâng để thực hiện lời hứa ấy, trải qua dòng thời gian, Thiên Chúa đã chọn dân riêng là dân Do Thái và hình ảnh Đấng Cứu thế, dòng dõi người phụ nữ ấy mỗi ngày một thêm rõ nét. Chẳng hạn tiên tri Isaia đã xác định: Một trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Rồi đến tiên tri Mikha bài đọc 1 hôm nay nói: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiệnmột vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa”. Và trải dài suốt dọc thời gian, nhân loại đã mò mẫm tìm kiếm Thiên Chúa, nhất là dân Do Thái, họ khắc khoải chờ mong Đấng Cứu thế sẽ đến để giải thoát họ, mỗi khi đất nước họ gặp phải tai ương hoạn nạn. Nỗi khắc khoải chờ mong ấy đã kết tinh thành những lời nguyện cầu tha thiết: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời”. Và khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời phán hứa thuở xưa bằng cách sai Con Một Ngài xuống trần để cứu độ chúng ta. Tuy nhiên, để Ngôi Lời có thể mặc lấy xác phàm và ở giữa chúng ta, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria để cộng tác với Ngài trong việc thực hiện chương trình cứu độ mà Ngài đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước. Do đó, Thiên Chúa đã chọn lựa một nơi chốn khác xa xôi, bé nhỏ và hẻo lánh không ai ngờ tới. Đó là làng quê Bêlem, trước đây gọi là Ephrata.

Đấng Cứu Thế và dòng tộc của Ngài sẽ bắt nguồn từ đó chớ không phải tại thủ đô Giêrusalem hay một thành phố danh tiếng nào khác vùng Trung Đông cổ. Và trong làng quê Bêlem, Thiên Chúa chọn gia đình ông Giêsê, cha của vua Đavít và là ông tổ của thánh Giuse, bạn Đức Trinh Nữ Maria, người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế. Như thế, Ngài đã bước vào gia đình nhân loại như một trẻ bé bỏng, yếu đuối, trong một gia đình bình thường như hàng ngàn vạn gia đình bình thường khác. Tuy nhiên, trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không có gì là tình cờ cả. Các lựa chọn ngược đời ấy của Thiên Chúa, là quê Bêlem khiêm tốn, điều kiện bé bỏng yếu đuối của con người đều tham dự vào sự cao cả và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa. Bởi vì Đấng xuất thân từ đó sẽ thống trị mọi dân nước và cai trị với chính uy quyền của Thiên Chúa toàn năng và sẽ đem lại an bình cho nhân loại.

Kiểu cách lựa chọn ngược đời và các nẻo đường lạ lùng Thiên Chúa dùng để hiện thực chương trình cứu độ, càng nổi bật hơn theo bài Phúc Âm thánh Luca chúng ta vừa nghe. Maria, con của một gia đình làng quê Nazareth được Thiên Chúa lựa chọn làm người cưu mang Đấng Cứu Thế Con của Ngài. Phúc lành Thiên Chúa đổ tràn đầy trên Trinh Nữ Maria cũng là phúc lành Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại trong dòng lịch sử thế giới, lịch sử loài người. Thiên Chúa đã ban cho con người không biết bao nhiêu là phúc lành, nhưng phúc lành vĩnh viễn và cao quí trọng đại nhất là chính Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Rõ ràng, lời chào của bà Isave khi thấy Trinh Nữ Maria đến thăm mình và bà cất tiếng ngợi khen: “Em ơi, em thật có phúc hơn mọi phụ nữ và Giêsu người con của cung lòng em cũng thật là có phúc“.

Vâng, phúc lành Thiên Chúa ban cho người qua Chúa Giêsu Kitô được Thánh Phaolô mô nói rất rõ qua bài ca thất ý nghĩa đáng cho chúng ta ngợi khen và suy niệm qua mọi thời: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người. Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Ki-tô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người. Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Ki-tô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (Ep 1,3-14).

Lạy Chúa, lễ Giáng sinh đang đến rất gần. Trái tim chúng con tràn ngập niềm vui và hạnh phúc vì muôn phúc lành của Thiên Chúa luôn tuôn đổ trên chúng con trong suốt mùa vọng này. Đó cũng là niềm vui của thánh Gioan trong cung lòng bà Elisabeth, bởi thai nhi đã cảm nhận được viếng thăm của Chúa và phúc lành của Ngài. Chúng con xin Chúa cho chúng con luôn biết nhận ra sự hiện diện của Chúa và phúc lành của Ngài trên cuộc đời chúng con, nhất là khi lãnh nhận Thánh Thể Chúa. Xin Chúa cho chúng con cảm nhận được niềm vui sướng vì phúc lành trọng đại là Chúa Giêsu ngự trong tâm hồn và cuộc sống chúng con làm cho chúng con sống thánh thiện và bình an trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Amen.

 

SUY NIỆM II

HAI NGƯỜI MẸ

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, O.P.

Những mối hiệp thông

Trình thuật Tin Mừng hôm nay thường được gọi là trình thuật Thăm Viếng. Tất cả những chi tiết trong trình thuật này đều cho thấy sự hiện diện đầy sinh động của Chúa Thánh Thần, với một dữ kiện đặc biệt: sự hiệp thông.

Trước hết là sự hiệp thông giữa Đức Maria và người con Mẹ đang cưu mang: khởi đầu là sự chuyển thông sinh học giữa người mẹ và thai nhi để rồi đi đến sự chuyển thông tinh thần. Sau này, khi kết thúc trình thuật Tin Mừng thơ ấu, thánh Luca viết: “Đức Maria hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (x.Lc 2,51). Giờ đây, Mẹ cưu mang người con cách cụ thể, còn sau này, Mẹ cưu mang người con cách mầu nhiệm. Giữa mẹ và con luôn diễn ra mối hiệp thông sâu xa, và người mẹ hằng ghi nhớ, hằng suy niệm. Sự suy niệm liên tục này chính là hoa trái của Thánh Thần, Đấng đã đến với Mẹ trong biến cố truyền tin. Từ giây phút ấy trở đi, tất cả cuộc đời Mẹ đều ghi đậm dấu ấn về sự hiện diện của Thánh Thần.

Tiếp đến là sự hiệp thông giữa bà Êlisabet và Đức Maria. Đây không chỉ là cuộc gặp gỡ bình thường giữa hai người mẹ đang ở trong cùng một hoàn cảnh: chờ đợi ngày đứa con của mình chào đời. Như Đức Maria, bà Êlisabet cảm nhận được sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, bà cũng nhận thấy rằng cuộc viếng thăm của người em họ không phải là chuyện tình cờ. Vừa nghe tiếng Đức Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên: đứa con bà cưu mang khi đời đã về chiều báo cho bà biết tính cách khác thường của cuộc viếng thăm này.

Bản văn Tin Mừng cho biết: bà được tràn đầy Thánh Thần: bà cảm nghiệm cách sâu xa về mần nhiệm mà bà là nhân chứng. Chính vì thế, bà cất lên lời chào: “Em được chúc phúc… và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc…”(Lc 1,42)

Hai người mẹ gặp nhau theo chương trình của Thiên Chúa và cùng lên tiếng ca ngợi Thiên Chúa, Đấng đang làm những điều kỳ diệu cho mình và cho cả nhân loại. Một sự hiệp thông đặc biệt.

Sau nữa là sự hiệp thông giữa ông Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu. Vừa nghe tiếng bà Maria chào, đứa con trong lòng bà Êlisabet đã nhảy mừng. Sự kiện này hẳn có tầm quan trọng lớn lao. Làm sao một thai nhi trong lòng mẹ lại biết được người đến thăm mình là ai để rồi nhảy mừng? Làm sao có thể xảy ra sự kiện lạ lùng như thế nếu như không có sự can thiệp đầy linh thiêng? Thánh Luca không ngần ngại nói lên điều này: sau khi hoàn tất phần Tin Mừng, tác giả còn viết thêm sách Công Vụ Tông đồ, hay còn gọi là “Tin Mừng về Thánh Thần”, Đấng đến để nâng trần gian lên. Như vậy, tác giả chứng tỏ chính Thánh Thần đã hoạt động ngay từ lúc khởi đầu.

Hiệp thông… Thánh Thần. Hai từ ngữ này được sử dụng nhiều lần trong Cựu Ước. Mỗi lần Thần Khí Thiên Chúa can thiệp là dân tộc được hiệp nhất. Trong trình thuật thăm viếng này, nhờ hoạt động của Thánh Thần, một nhân loại mới đã xuất hiện. Đó là dân được chính Thiên Chúa dẫn đưa vào con đường vĩnh cửu của tình yêu.

Một già, một trẻ

Với trình thuật thăm viếng, Chúa nhật thứ  IV mùa Vọng quả là ngày lễ của các bà mẹ, những người đang cưu mang trong mình niềm hy vọng và sự sống.

Hai người mẹ đang cưu mang hai người con, hay đúng hơn, đang cưu mang nhân loại mới; hai người mẹ ấy gặp nhau trong một cuộc gặp gỡ khác thường, cuộc gặp gỡ có một không hai trong lịch sử nhân loại.

Đây quả là một cuộc “gặp gỡ thượng đỉnh”, nhưng không diễn ra ở Paris, ở trụ sở Liên Hiệp Quốc hay một thành phố nổi tiếng nào, mà lại diễn ra tại một ngôi làng thuộc miền núi, một ngôi làng nhỏ bé, vô danh.

Một bên là bà Êlisabet, người đàn bà lớn tuổi chẳng còn chút hy vọng có được một đứa con, người đàn bà thuộc giai đoạn cuối cùng của giao ước cũ. Bà thu tóm nơi mình những thế kỷ đợi chờ, có cả trung tín và bất trung của một dân tộc đã ra nặng nề vì lịch sử quá dài. Bà là người cuối cùng trong cả một danh sách dài những phụ nữ lớn tuổi và hiếm muộn, nhưng đã được Thiên Chúa ban cho phúc làm mẹ. Bà đứng đó, bên ngưỡng cửa, ở biên thùy của một thế giới mới.

Bên kia là cô Maria, một phụ nữ còn rất trẻ, vừa mới đính hôn. Người phụ nữ này tiến tới, nhìn thẳng về tương lai. Trước lời loan báo của sứ thần, cô đã nói lên tiếng “xin vâng”, và vĩnh cửu đã ồ ạt tràn vào hiện tại. Cô mang trong mình một thời đại hoàn toàn mới, từ đó cái chết bị đập tan và tình yêu là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá một công việc có thành công hay không. Cũng trong thời đại mới này, mặt trời mới đã bừng lên: đó là cuộc Phục Sinh.

Thời đại mới này đã gặp gỡ thế giới cũ, và mọi biên giới bị xóa nhòa.

Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ thật ra lại là cuộc gặp gỡ giữa hai người con. Những người mẹ bị lu mờ trước những người con. Các người con này chính là quá khứ và tương lai, nay hòa nhập vào nhau, nhận ra nhau bằng cách chuyển động trong lòng mẹ. Chỉ những người mẹ đang mang sự sống trong mình mới nhận ra dấu hiệu này.

Cuộc gặp gỡ này là thời điểm trọng tâm của lịch sử nhân lọai. Mặt đất được sáng tạo một lần nữa, một giao ước mới được ký kết: lần đầu tiên Thiên Chúa làm người và gặp gỡ nhân lọai cách cụ thể.

Cuộc gặp gỡ này quả là cao điểm của lịch sử, trong đó hai người mẹ quê mùa chất phác đã biến những kẻ ngạo mạn quyền thế, những người vốn nghĩ rằng thế giới nằm trong tay mình, thành những kẻ làm trò cười cho thiên hạ.

Hai người con họat động trong lòng mẹ, hai người mẹ ngập tràn hạnh phúc, ngỡ ngàng vì tình yêu Thiên Chúa: một thời điểm mà tất cả đều trở thành vô biên và vĩnh cửu. Trong

thời điểm này, không ai có thể nói lên điều gì khác ngoài lời ca tụng Thiên Chúa.

Thiên Chúa chúng ta thật lạ lùng. Chúa chúng ta thật kì diệu!

Đất hãy mở ra

Đối với chúng ta, thật là một niềm vui lớn lao, khi còn mấy ngày nữa đến lễ Giáng Sinh, được có cơ hội đọc lại và suy niệm trình thuật thăm viếng. Nhờ đó chúng ta được hiệp thông với niềm cảm xúc của Đức Maria.

Câu chuyện rất đơn giản: một người thiếu nữ vội vã lên đường đi thăm người chị họ và người chị này rất cảm động khi được em đến thăm. Tuy nhiên, đàng sau câu chuyện này, tâm trí chúng ta vẫn ghi nhớ những lời trao đổi giữa hai người phụ nữ. Câu chuyện diễn ra tại ngôi làng quê nhỏ bé lại đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm cứu độ. Những điều chúng ta đọc thấy trong văn bản ngắn gọn này giúp chúng ta nhận ra những điều mắt không trông thấy. Đó là Đấng vô hình đã trở nên hữu hình. Thiên Chúa viếng thăm Dân Người.

Con trẻ sắp sinh ra thuộc dòng dõi nhân loại. Người là con cháu Ađam nhưng nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ  thuở xa xưa (Mk 5,2): Người là Con Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia đã ca tụng:

“Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương,

Mây hãy đổ mưa, mưa Đấng Công Chính,

Đất rộng mở, cho xuất hiện Vị Cứu Tinh”

Trong con người Đức Kitô, trời và đất gặp nhau, Người là con Thiên Chúa và cũng là con loài người. Vì là con loài người, Người sẽ hiến tế chính mình. Nhưng Người sẽ phục sinh, vì Người là con Thiên Chúa, khi ấy cả trời đất lại vui mừng. Chúng ta đang đến gần thời điểm Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Người. Xin ân sủng của Người luôn nâng đỡ chúng ta và đồng hành với chúng ta.

Ngay khi làm người, Đấng cứu chuộc chúng ta đã đến viếng thăm người bạn Gioan còn trong lòng mẹ. Vị vua đã đến căn lều của người lính, ông chủ đã đến căn chòi của người nô lệ.

Mặc dù chưa sinh ra, ông Gioan đã lên tiếng qua những chuyển động trong lòng mẹ; mặc dù chưa thốt lên lời, ông Gioan đã làm cho người khác nghe tiếng qua cử chỉ; mặc dù chưa đi vào cuộc đời, ông Gioan đã rao giảng về Thiên Chúa; mặc dù chưa nhìn thấy ánh sáng, ông Gioan đã chỉ cho mọi người thấy

Mặt Trời; mặc dù chưa chào đời, ông Gioan đã bắt đầu ra đi …

(Trích bài giảng được cho là của thánh Gioan Kim Khẩu)

 

SUY NIỆM III

MÙA VỌNG: NHẬN RA CHÚA TRONG NHỮNG ĐIỀU NHỎ BÉ

Anh chị em thân mến,

Mùa Vọng luôn là mùa của sự mong đợi, một thời gian đặc biệt trong năm mà chúng ta được mời gọi chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa đến. Không phải chỉ trong một sự kiện lịch sử mà là trong cuộc sống mỗi ngày, Đấng Cứu Thế đang đến gần chúng ta, đem lại cho nhân loại sự cứu độ và bình an.

Lời tiên báo trong sách Mi-kha (5:1) cho biết: “Ngươi, Bê-lem, dù ngươi nhỏ bé giữa muôn ngàn thành của Giu-đa, nhưng từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng thống trị Ít-ra-en.” Điều này gợi lên hình ảnh của một làng nhỏ bé, không nổi bật so với những thành phố lớn. Tuy nhiên, chính từ đó, Đấng Mê-si-a sẽ đến. Sự khiêm nhường của Bê-lem nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa không cần những sự huy hoàng bề ngoài để hành động. Ngài chọn đến trong sự giản dị, trong những điều nhỏ bé và khiêm nhường nhất.

Hành động này của Thiên Chúa là lời mời gọi mỗi chúng ta sống khiêm nhường và nhận ra sự hiện diện của Ngài ngay trong những hoàn cảnh tưởng chừng như không có gì đặc biệt trong cuộc sống hằng ngày. Cũng giống như Bê-lem, đời sống đức tin không cần sự phô trương, mà tìm thấy ý nghĩa và sự hiện diện của Thiên Chúa trong sự thinh lặng và bình dị của cuộc sống.

Khi đọc Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Maria đã vội vã lên đường thăm bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét thốt lên: “Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện” (Luca 1:45). Đức tin của Maria không chỉ là một niềm tin trong đầu, mà là sự vâng phục đầy lòng yêu mến. Maria không chỉ nghe lời Thiên Chúa, mà còn hành động theo lời Ngài, dù không biết tương lai sẽ ra sao.

Đức tin của Maria là một mẫu gương tuyệt vời về việc sống đức tin trong cuộc sống cụ thể. Cô không chần chừ, không đắn đo, mà ngay lập tức đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, dù thử thách sẽ đến với cô. Đức tin ấy là một sự kết hợp giữa tin tưởng và hành động. Maria đã vâng phục Thiên Chúa không chỉ trong lời nói mà còn trong mỗi cử chỉ, mỗi bước đi của mình.

Mỗi chúng ta cũng được mời gọi để sống đức tin giống như Mẹ Maria. Đức tin không chỉ là niềm tin về những điều sẽ xảy ra trong tương lai mà còn là việc thực thi thánh ý Thiên Chúa ngay trong hiện tại. Đức tin này không chỉ là sự đồng ý với những gì Thiên Chúa mạc khải, mà là sự sẵn sàng đón nhận Ngài vào cuộc sống, trong những điều nhỏ bé và giản dị nhất.

Thánh Tôma Aquinô đã dạy rằng đức tin là một hành động của trí tuệ, là sự đồng ý và tuân theo những gì Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta. Đức tin không phải chỉ là một cảm xúc, mà là một quyết định, một sự chọn lựa để sống theo thánh ý Thiên Chúa mỗi ngày. Điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chính qua sự vâng phục, qua sự kiên nhẫn trong thử thách, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa hiện diện và dẫn dắt chúng ta từng bước.

Mùa Vọng không chỉ là việc chúng ta đợi chờ Chúa Giáng Sinh, mà là thời gian để nhận ra Ngài đang đến trong cuộc sống mỗi ngày. Thiên Chúa không chỉ đến trong một khoảnh khắc lịch sử, mà Ngài đến với chúng ta qua những người anh em, qua những việc làm phục vụ, qua những cử chỉ yêu thương trong cuộc sống. Ngài đến trong những điều nhỏ bé, và chính trong đó, chúng ta tìm thấy sự cứu độ và bình an.

Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng: “Mỗi khi các con làm điều này cho một trong những anh em bé nhỏ này, là các con đã làm cho chính Ta” (Matthew 25:40). Đây là lời mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong những công việc hằng ngày, trong những hành động yêu thương mà chúng ta dành cho nhau.

Anh chị em thân mến, mùa Vọng là dịp để chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa. Hãy để Chúa đến trong những nơi tưởng như nhỏ bé, khiêm nhường nhất của cuộc sống chúng ta. Hãy sống đức tin và vâng phục như Mẹ Maria, sẵn sàng bước theo thánh ý Thiên Chúa và trở thành những chứng nhân của tình yêu và sự bình an mà Chúa mang đến.

Mỗi hành động yêu thương, mỗi cử chỉ phục vụ là cách chúng ta đón nhận Chúa vào cuộc sống. Chúng ta hãy sống mùa Vọng này không chỉ bằng lời cầu nguyện, mà còn qua những việc làm cụ thể, trong sự khiêm nhường và yêu thương. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết nhận ra Ngài trong mọi hoàn cảnh và sống đức tin một cách cụ thể mỗi ngày. Amen.

jn.nvh

GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

(Nguồn: giaophancantho.org)

  1. CHÚA GIÊSU TRONG TU VIỆN

Đây là một câu chuyện nói về sự khác biệt triệt để có thể tạo ra khi người ta ý thức về sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống, với mỗi cá nhân cũng như cộng đoàn. Một tu viện Do Thái ở Palestine vào thế kỷ đầu, bỗng nhận ra rằng họ đang trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Một số tu sĩ đã bỏ đi mà lại không có thêm ứng viên mới gia nhập, và người ta cũng không còn đến để cầu nguyện và tìm linh hướng như trước nữa. Một vài tu sĩ còn ở lại đã trở nên già nua, chán nản và hay gắt gỏng trong mối quan hệ của họ với nhau. Vị tu viện trưởng nghe nói về một vị thánh, một ẩn sĩ sống đơn lặng trong rừng sâu; và ông quyết định đi tham vấn vị ẩn sĩ. Ông trình bày với vị ẩn sĩ về tình trạng tu viện của ông đã bị thu giảm và èo uột như thế nào, và bây giờ nó trông giống như một bộ xương khô. Chỉ còn lại bảy tu sĩ già nua. Vị ẩn sĩ nói với tu viện trưởng rằng ông có một bí quyết có thể đóng góp: một trong những tu sĩ hiện đang sống trong tu viện thực sự là Chúa Giêsu đang cải trang, sống theo cách mà không ai có thể nhận ra Người. Với sự tiết lộ này, vị tu viện trưởng quay trở lại tu viện của mình, triệu tập một công nghị và kể lại những gì vị ẩn sĩ thánh thiện đã nói với ông. Các tu sĩ già nhìn nhau với vẻ thăm dò, cố gắng phân định ai trong số họ có thể là Chúa Giêsu. Có thể là anh Mark, người luôn cầu nguyện mọi nơi mọi lúc chăng? Nhưng anh ta lại tỏ thái độ thánh thiện hơn người đối với anh em. Có thể là anh Joseph, người luôn sẵn sàng giúp đỡ chăng? Nhưng anh ta lại ăn uống luôn miệng và không thể nhịn ăn. Vị trụ trì nhắc nhở họ rằng Chúa Giêsu đã ăn vận y phục thông thường như một cách ngụy trang danh tính thực sự của Người. Điều này chỉ khiến họ thêm bối rối và họ không thể tìm ra ai là Chúa Giêsu giữa họ. Vào cuối buổi họp, điều mà mỗi tu sĩ biết chắc chắn là bất kỳ tu sĩ nào, ngoại trừ chính mình, đều có thể là Chúa Giêsu. Và vì vậy tất cả họ đều yêu mến và phục vụ Người trong mỗi người, và tu viện đã trở lại Sức Sống ban đầu. (Fr. Munacci)

  1. ÂM THANH NHỎ

Có một đoạn văn kỳ diệu trong Cựu Ước, mà một cách nào đó, minh họa cho một điều xảy ra trong bài đọc Lời Chúa hôm  nay. Đó là cảnh vị tiên tri nổi tiếng Êlia, bị kẻ thù truy đuổi, ẩn náu trong một hang động và chờ đợi Chúa cho biết phải làm gì. Ông được nhắc bảo phải đi đến miệng của một cái hang động. Một cơn gió lớn quét qua thung lũng, làm gãy đổ các cây cối, nó thật là mạnh mẽ. Nhưng Kinh Thánh nói, Chúa không ở trong gió. Sau đó, một trận động đất khủng khiếp xảy ra và những ngọn núi đổ nhào. Nhưng một lần nữa chúng ta lại được thông báo, Chúa không ở trong trận động đất. Sau đó là một đám cháy lớn; nhưng ở đó, Kinh thánh lại tuyên bố: Chúa vắng mặt. Cuối cùng, Êlia nghe thấy một âm thanh nhỏ xíu, thì thầm, và ông nhanh chóng lấy áo che mặt vì tôn kính sự hiện diện thánh thiện của Đức Chúa. Một âm thanh nhỏ nhẹ, thì thầm! Chúa nói Ngài không ở trong gió, động đất hay lửa đỏ, nhưng trong âm thanh thì thầm nhỏ bé.

* Và cũng giống như cách Ngài nói lại, lần cuối cùng và trọn vẹn, khi Ngài phán Lời cuối cùng của Ngài cho loài người trong mọi thời đại: Lần này, Ngài nói trong tiếng khóc nhè nhẹ của một em nhỏ ở Bethlehem.

  1. CẦN CÁI BẮT TAY

Nhà soạn nhạc và biểu diễn Bradley James đã chuyển những lời dạy và lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa Calcutta thành âm nhạc trong bản thu âm được quốc tế hoan nghênh, Gift of Love: Music to the Words and Prayers of Mother Teresa (Quà tặng tình yêu: giáo huấn và kinh nguyện của Mẹ Têrêsa trong ca nhạc). Bradley nhớ lại lời khuyên của bà: “Mẹ nói rằng chúng ta không cần phải đến Calcutta để giúp đỡ người nghèo; đúng hơn, chúng ta phải giúp họ ngay trước mặt chúng ta.” Anh đã áp dụng bài học này khi anh gặp một người ăn xin vô gia cư trên đường phố San Francisco. Bradley đặt một số tiền vào cái bát kim loại của anh, sau đó đưa tay ra và bắt tay người đàn ông. Người nhận trao cho anh ta một nụ cười thật tươi, và hai người trao đổi tên và trò chuyện thân mật với nhau. Bradley nhớ lại: “Sau đó, anh ấy kéo tôi lại gần hơn một chút và nói: “Tôi cảm ơn ông vì số tiền đã nhận được, nhưng điều tôi thực sự cần là một cái bắt tay” [x. Susan Conroy, Our Sunday Visitor (ngày 19 tháng 10 năm 2003), tr. 17.] Thật vậy, điều đáng chú ý trong sự việc này không phải là đồng tiền nhỏ, mà là món quà của phẩm giá con người và tình yêu của Chúa mà Bradley James đã mang đến cho người ăn xin qua cái bắt tay và sự hiện diện của tình huynh đệ của anh ta.

* Quả thật, Bradley đã tái hiện nơi cuộc đời mình và trải nghiệm, mầu nhiệm vui về cuộc viếng thăm của Chúa (x. Lc 1,39-45) được mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay.

  1. QỦY MÙA VỌNG

Maula Powers là một người kể chuyện tài giỏi. Trong một số của tạp chí Catholic Digest cách đây vài năm, bà Powers đã kể về một sinh vật được gọi là “Advent Teufel” (Quỷ Mùa Vọng). Teufel là một từ tiếng Đức để chỉ ma quỷ. Theo một câu chuyện dân gian cổ của Đức, Quỷ Mùa Vọng đã cố gắng trong suốt Mùa Vọng cám dỗ mọi người bận rộn với những công việc bề ngoài đến nỗi họ quên mất ý nghĩa thực sự của lễ Giáng Sinh. Ác quỷ Mùa vọng không muốn mọi người có thời gian để trải nghiệm sự tái sinh của Chúa Kitô trong chính họ. Những lời dụ dỗ của Quỷ Mùa Vọng thật khôn ngoan. Nó lôi kéo chúng ta dễ dàng hòa mình vào dòng chảy của các lễ hội theo mùa. Mưu đồ của Quỷ Mùa Vọng là khiến chúng ta bận rộn với các kế hoạch trong kỳ nghỉ đến nỗi chúng ta bỏ qua việc cầu nguyện, đọc Lời Chúa hàng ngày và tham gia các công tác nhà thờ. Một số người trong chúng ta đã chiến đấu với Ác quỷ Mùa Vọng trong năm nay. Hy vọng rằng chúng ta khống chế  được nó ít nhất là trong tuần tới! Tôi hy vọng bạn có thể sử dụng chút thời gian còn lại để tập trung vào ý nghĩa đích thực của lễ Giáng Sinh.

  1. TÔI THỰC SỰ QUAN TRỌNG

Một người đàn ông trong bệnh viện đang điều trị bệnh ung thư. Ông ta bị cộng đoàn giáo xứ ghẻ lạnh. Ông có một danh sách dài những thứ ông muốn lên án, có thể được nêu ra cho chúng ta: không phục tùng Giáo hội trong hình thức thể chế hiện tại; không thiện cảm với các giáo sĩ, không tham dự các nghi lễ rườm rà v.v…và v.v…. Nhưng một linh mục tuyên úy bệnh viện bước vào – không được mời, ngài chỉ đi thăm các bệnh nhân. Vị linh mục hỏi người đàn ông: “Ông có muốn được xức dầu không?” Người đàn ông nói: “Có.” Sau khi ông chịu các bí tích, người ta thấy ông viết những dòng này trong cuốn sổ của mình: “Nằm trên chiếc giường bệnh chật hẹp của mình, tôi cảm nhận được niềm vui và ơn chữa lành, tôi biết mình chỉ còn rất ít thời gian. Tuy nhiên, quan trọng hơn, tôi cảm thấy bởi một ân sủng lạ lùng rằng, đây là lần đầu tiên trong ký ức của tôi, Giáo hội chú ý đến tôi, một cách cá nhân, gọi tên, xướng tên thánh, và cầu nguyện cho tôi đối phó với hoàn cảnh đau đớn hoang mang và tuyệt vọng của tôi. Bỗng nhiên tôi nhận ra, tôi thấy mình quan trọng thế nào: tôi thực sự quan trọng. Tôi vẫn không hết cảm nhận được năng lực thấy mình quan trọng, thấy mình là một ​cá nhân không thể thay thế.”

​* Trong hoạt cảnh thăm viếng được mô tả trong Tin Mừng hôm nay, hai người phụ nữ tầm thường nhận ra họ quan trọng như thế nào khi họ được chọn làm mẹ Đấng Messia và mẹ vị tiền hô của Chúa Cứu Thế. (Cha Tony)

  1. LỊCH SỬ LỄ THĂM VIẾNG

Lễ này có nguồn gốc từ thời trung cổ. Nó được các tu sĩ  dòng Phanxicô lưu giữ từ trước năm 1263 khi thánh Bônaventura khuyến khích và phân hội dòng Phanxicô đã đón nhận. Dòng Phanxicô Breviary sau đó tiếp tục truyền bá lễ này đến nhiều cộng đoàn. Năm 1389, Đức Giáo hoàng Urbanô VI đã đưa vào Lịch Phụng vụ Rôma, để cử hành vào ngày 2 tháng 7, với hy vọng qua đó chấm dứt giai đoạn Đại Ly giáo (x. Great Western Schism). Theo Lịch Tridentinô, lễ này được đặt là bậc Lễ Trọng. Khi Sách Lễ của Đức Giáo hoàng Piô V được thay thế bằng Sách Lễ của Đức Giáo hoàng Clementê VIII vào năm 1604, lễ Thăm Viếng trở thành Lễ Trọng Bậc Hai. Bậc lễ này vẫn tiếp tục như vậy cho đến khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII phân loại lại và đặt là Lễ Bậc Hai vào năm 1962. Lễ tiếp tục được ấn định vào ngày 2 tháng 7, là ngày sau khi kết thúc tuần bát nhật mừng kính sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, vị vẫn còn ở trong lòng mẹ vào thời điểm Đức Maria thăm viếng. Tuy nhiên, vào năm 1969, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã dời lễ này sang ngày 31 tháng 5, “giữa Lễ Truyền Tin (25 tháng 3) và Lễ Sinh Nhật thánh Gioan Tẩy Giả (24 tháng 6), để nó phù hợp hơn với câu chuyện trong  Tin Mừng.”

  1. BỨC TRANH ĐỨC MẸ THĂM VIẾNG

Họa sĩ người Hà Lan thế kỷ 17 Rembrandt Van Rijn đã vẽ cho chúng ta một bức tranh rất khác về khung cảnh trong Kinh Thánh. Maria, Mẹ của Chúa chúng ta và bà Êlisabeth không ăn mặc như những mệnh phụ hoàng tộc. Thay vì mặc áo choàng sặc sỡ và trang phục hoàng gia, họ mặc những chiếc áo choàng đơn giản. Họ gặp nhau bên ngoài một ngôi nhà ở vùng đồi núi, trong một thị trấn miền Giuđa. Họ không được các cherubs và seraphim vây quanh- không có thiên thần. Zacaria, chồng của Êlisabeth, lúc đó đã già yếu, phải dựa vào vai một cậu bé để giúp ông bước đi. Chuyến viếng thăm này trông giống như một cảnh khá bình thường. Trong bức tranh này, một con chó nhà đang đi dạo bên Maria và Êlisabeth, không để tâm đến họ. Rembrandt vẽ một chùm tia màu vàng lên hai người phụ nữ để chiếu sáng khi họ gặp nhau. Êlisabeth, trong nháy mắt đã nhận biết, vui mừng nắm lấy vai Đức Mẹ để ôm bà và kêu lên: “Maria, em thật là diễm phúc! Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Với Êlisabeth – nét mặt, ngôn ngữ cơ thể và ánh nhìn chăm chú vào mắt Maria, gợi lên nơi họ nhận thức rằng họ đang ở giai đoạn đầu của một thế giới mới – khi Chúa Giêsu nằm trong lòng Đức Maria trẻ tuổi. Maria đứng thẳng, đầu hơi cúi xuống trước người chị họ của mình, để cho một người hầu cởi chiếc áo choàng của bà. Một người đàn ông phía sau dắt một con la có dây cương, cho thấy quãng đường Maria đã di chuyển. Êlisabeth đầy cảm xúc vui mừng đến nỗi hét lên trong kinh ngạc: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”

* Lời cầu xin đơn giản này của Êlisabeth là một hành động thờ phượng, một bài thánh ca thiêng liêng: “Con là ai, lạy Chúa! Chúng con là ai mà Chúa phải đến với chúng con?” (Để xem hình ảnh lớn hơn, hãy truy cập: http://james-a watkins.hubpages.com/hub/Rembrandt-is-my-favorite-artist (Fr. Tony)

8.ÔNG ẤY ĐẾN GIỮA CHÚNG TA

Người Nga trong nhiều thế kỷ đã kể một truyền thuyết về một hoàng tử trẻ thời Trung cổ, Alexis, sống trong một cung điện xa hoa, trong khi xung quanh, hàng trăm nông dân nghèo sống trong những căn nhà tồi tàn bẩn thỉu. Hoàng tử đã cảm động với lòng trắc ẩn đối với những người dân nghèo này và ông quyết tâm cải thiện cuộc sống của họ. Vì vậy, trước hết ông bắt đầu đến thăm họ. Nhưng khi đến cũng như lúc ra về, ông cảm thấy buồn vì hoàn toàn không liên lạc được với họ. Họ tỏ ra vô cùng kính cẩn, gần như tôn thờ ông; tuy nhiên ông không bao giờ có thể thu phục được lòng yêu mến của họ. Họ vẫn còn thể hiện sự xa lánh, và ông trở về cung điện với một trải nghiệm thất bại và thất vọng. Rồi một ngày nọ, một người đàn ông rất khác đến với dân chúng. Ông ta là một bác sĩ trẻ nhiệt thành và tận tâm, ông muốn cống hiến cuộc đời mình để phục vụ người nghèo. Ông ta bắt đầu thuê một cái lán bẩn thỉu đầy chuột nhắt để ở, cạnh  một con đường nhỏ. Ông không hề tỏ ra mình là người bề trên – quần áo của ông, cũng giống như của họ, cũ sờn và rách tươm- và ông sống đơn giản bằng những thức ăn đạm bạc mà không biết bữa tiếp theo sẽ thế nào. Ông không thu tiền từ nghề của mình vì ông chữa bệnh miễn phí cho hết mọi người và cho không thuốc của mình. Chẳng bao lâu sau, vị bác sĩ trẻ tuổi này đã giành được sự kính trọng và yêu mến của tất cả người dân, điều mà hoàng tử Alexis chưa từng làm được. Rồi từng bước một, ông đã biến đổi toàn bộ cả đời sống tinh thần nơi đây: giải quyết các cuộc cãi vã, hòa giải những mối thù hằn, giúp mọi người có cuộc sống ổn định. Không ai có thể đoán được rằng vị bác sĩ trẻ tuổi này lại chính là hoàng tử, người đã từ bỏ cung điện của mình và đến ở giữa những người dân của mình để trở thành một trong số họ.

* Đó chính là những gì Chúa đã làm vào ngày Giáng Sinh đầu tiên đó. Người đã đến ở với chúng ta- Đấng Emmanuel- để giúp chúng ta trở nên con Thiên Chúa. (John Williams; trích dẫn bởi cha Botelho)

            Linh mục Giuse Ngô Quang Trung sưu tầm