Lược Sử Giáo Phận Đà Nẵng
LƯỢC SỬ GIÁO PHẬN ĐÀ NẴNG
I- TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ GIÁO PHẬN ĐÀ NẴNG
Giáo phận Đà Nẵng, nếu tính từ thời điểm có sắc chỉ “In vitae naturalis similitudinem” của ĐGH Gioan XXIII thành lập giáo phận ngày 18.01.1963, vẫn được xem là Giáo phận trẻ so với nhiều giáo phận khác. Tuy vậy, với những yếu tố lịch sử, địa dư, xã hội… liên quan, Giáo phận Đà Nẵng lại mang trong mình nhiều dấu ấn của một Giáo hội Việt Nam kiên cường và sống động. Những thăng trầm trong dòng lịch sử của Giáo hội hoàn vũ, đất nước và địa phương, đã cho Đà Nẵng những khả năng để minh chứng Đạo Chúa và để làm cho sứ điệp Tin Mừng của Chúa Kitô được tiếp tục sống động và hiệu quả cho đời sống con người nơi vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng của miền Trung nhiều thử thách này.
1- Trong dòng lịch sử Giáo hội Việt Nam :
Biên niên sử của Giáo hội Việt Nam thời sơ khai (1615-1885) khắc ghi nhiều niên biểu, địa danh và sự kiện liên quan đến Giáo phận Đà Nẵng ngày nay.
Trước hết, là địa danh Cù lao Chàm với biến cố Duarte Coelho dựng Thánh giá (1516) ; Hội An (Faifo / Phố Hội) nơi đã vinh dự đón những bước chân đầu tiên và cũng là cư sở của các vị thừa sai, các thương nhân công giáo người Bồ đào Nha, Pháp, Ý : Cha Francesco Buzomi, Diego Carvalho, Thầy Antonio Dias và Paul đến Cửa Hàn, Hội An (ngày 18.01.1615), Cha Pina (1622-23), Cha Alexande de Rhodes (1624/ 1640/ 1642); Công nghị năm 1664 do Đức Cha Lambert de la Motte tổ chức, hoạch định đường hướng mục vụ chung theo Huấn dụ của Tòa Thánh và Công nghị lần II do Đức Cha Mahot (1682-1684) tổ chức tại Hội An ; Địa danh Phước Kiều (Thanh Chiêm), năm 1644, đã hân hạnh là nơi đón nhận những giọt máu chứng nhân đức tin anh hùng của vị Tử đạo tiên khởi là Thầy giảng Anrê Phú Yên (1625-1644) ; Các địa danh Bàu Nghè (An Ngãi), An Sơn, Phú Quý, Phú Thượng, Trà Kiệu… cũng là những nơi gánh chịu nhiều tổn thất của các cuộc bách hại đức tin và lưu giữ dấu tích liên quan đến các vị chứng nhân đức tin qua nhiều thời kỳ.
Thứ đến, từ vùng đất Quảng Nam Đà Nẵng này, Dòng Tên đã đặt nền móng xây dựng Giáo Hội Việt Nam tại nơi đây và phát triển Đạo Chúa sang các tỉnh thành Đàng Trong và sau đó là Đàng Ngoài, đồng thời có những đóng góp lớn lao vào sự phát triển của đất nước và giáo hội Việt Nam. Về phần đời, đó là những đóng góp về sử học và địa lý Việt Nam thông qua các bản tường trình và các tác phẩm đã được xuất bản thời đó, giúp hiểu về đất nước và con người Việt Nam cùng với những tiếp xúc giao tế với mọi thành phần trong xã hội để phần nào có được những nhận xét và đánh giá thiện cảm đúng mực về người Việt Nam. Một đóng góp được kể là công trình vĩ đại giúp nước ta vươn đến thế giới văn minh nhanh chóng chính là chữ Quốc ngữ, do các vị Thừa Sai uyên bác : Buzomi, Pina và Alexandre de Rhodes, cũng đã hình thành và xuất hiện từ các vùng miền của Quảng Nam Đà Nẵng, như phương tiện thích ứng với công cuộc rao giảng Tin mừng của thời sơ khai. Về phần Đạo, những đóng góp được ghi nhận xuất phát từ nôi truyền giáo Hội An là : những thích nghi văn hóa vào đời sống tôn giáo, phong phú ngôn ngữ Việt Nam với các từ ngữ tôn giáo và ứng dụng các câu chữ thánh hiền để diễn tả các chân lý Đạo, tổ chức các nghi thức tôn giáo (tang chế, hôn lễ) hợp với phong tục Việt Nam, tổ chức Hội Thầy Giảng và Nhà Đức Chúa Trời để mời gọi giáo dân tham gia việc truyền giáo, vận động chuẩn bị cho Việt Nam có Giám mục Đại diện Tông Tòa và đào tạo linh mục bản quốc, xây dựng nền văn chương Kitô giáo qua việc sáng tác, sao lục, in ấn và phổ biến tác phẩm tôn giáo, tổ chức sinh hoạt các xứ đạo nền nếp : kinh nguyện, giáo lý, đi làm phúc…
Sau nữa, do địa hình sơn thủy giao hòa, mà các cảng sông biển, đường bộ của Quảng Nam Đà Nẵng vẫn là nơi cập bến hoặc di chuyển của nhiều các vị thừa sai của các Hội Thừa sai Ba-lê, Dòng Tên, Dòng Phan-xi-cô, các vị Thừa Sai khả kính, trên con đường thiên lý rao giảng Phúc Âm và thành lập Hội Thánh địa phương của Đàng Trong.
Chính từ yếu tố nền tảng từ lịch sử này, bao thế hệ giáo dân, giáo sĩ xuất thân từ Quảng Nam và Đà Nẵng đã lưu giữ và phát huy một truyền thống đức tin mạnh mẽ và sống động, vượt qua mọi thử thách cản trở của thời cuộc để tiếp tục tồn tại và minh chứng cho giá trị Nước Trời trong mọi hoàn cảnh, mọi biến chuyển của đời sống xã hội, chính trị, kinh tế. Giáo phận Đà Nẵng vẫn luôn tiếp nối sự khởi đầu cần thiết cho công cuộc rao giảng và chứng tá Tin Mừng cách quả cảm và kiên trì theo dòng lịch sử, từ khi thành lập cho đến nay, với những nỗ lực thích ứng về mục vụ huấn giáo, truyền giáo, bác ái xã hội, tông đồ giáo dân… đều khắp các miền xứ thành thị lẫn thôn quê.
2- Theo dòng lịch sử Giáo hội hoàn vũ :
Giáo phận Đà Nẵng thực sự là đứa con của Công đồng Vaticanô II (11/10/1962 – 08/12/1965), khi được thành lập (tách ra từ Giáo phận Quy Nhơn vào ngày 18/01/1963) vào chính thời điểm diễn ra công đồng Vaticanô II, như lời huấn từ của Đức Giám mục tiên khởi Phêrô Maria Phạm ngọc Chi của Giáo phận phát biểu trong ngày nhậm chức (01/5/1963) : “Tôi rất vui mừng vì việc thiết lập Địa phận Đà Nẵng trùng năm với việc chiêu tập Công đồng Vatican đệ nhị. Lịch sử Đà Nẵng sẽ gắn liền với lịch sử Công đồng Vatican II. Cũng như Giáo hội sau Công đồng sẽ có một bộ mặt mới và một tinh thần mới thì Đà Nẵng của Công đồng Vatican II cũng sẽ có một bộ mặt và một tinh thần mới. Bộ mặt và tinh thần thực thụ của Chúa Kitô”. Chính quyết tâm xây dựng Giáo phận mới theo tinh thần của Công đồng của Đức Cố Giám mục tiên khởi đã trở nên định hướng cho mọi nỗ lực xây dựng và phát triển của Giáo phận non trẻ này.
Những hướng dẫn mang tính canh tân của Công đồng Vatican II thực sự được cập nhật và áp dụng đúng lúc tại Giáo phận. Trước hết là những Ủy ban được thành lập theo các Tự Sắc của Đức Giáo hoàng Phaolô VI : Ủy ban Phụng vụ, Ủy ban Truyền thông, Ủy ban Công giáo Tiến hành, Ủy ban Caritas, Ủy ban Giáo lý, Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Ủy ban Công lý Hòa bình (Ủy ban Phát triển). Tiếp theo là những Hội đồng Mục vụ, Hội đồng Linh mục, Hội đồng Giáo dân, Hội đồng Giáo xứ và những quy chế tương ứng. Tất cả được khai triển cùng với các khóa huấn luyện, học tập, hội thảo và đại hội. Không chỉ là những thay đổi về các nghi lễ cử hành Phụng vụ, hình thành các đoàn thể ban ngành Công giáo Tiến hành theo các chỉ dẫn của Công đồng và việc xây dựng các cơ sở đào tạo, mục vụ…, mà còn là một tinh thần sống đạo đích thực và tinh tuyền luôn được hướng dẫn và thực hành “ad Gentes”, hướng về công cuộc Truyền bá đức tin, hoạt động tông đồ giáo dân trong mọi tầng lớp, mọi lãnh vực và hoàn cảnh cuộc sống. Cần ghi nhận những hoạt động tông đồ giáo dân sau khi đã thấm nhuần tinh thần của Công đồng qua sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, bằng việc thi hành công việc này theo cả cơ chế cũ (Công giáo tiến hành với các đoàn thể đã có sẵn) và cơ chế mới (với Hội đồng Giáo xứ và Hội đồng Giáo dân cấp Giáo phận) qua các biến động của thời cuộc.
Tinh thần và giá trị đời sống Tin mừng theo Công đồng Vatican II vẫn tiếp tục là ý hướng chủ đạo cho mọi sinh hoạt âm thầm và sâu lắng của Giáo phận vào những năm sau biến cố năm 1975. Dù không còn những phương tiện khả dĩ để hoạt động (các cơ sở tôn giáo, các hội đoàn), dù sự mất mát về nhân sự (giáo sĩ và giáo dân) của một số lớn các xứ đạo (di cư đến những nơi khác hoặc hồi cư, không được phong chức linh mục) ; nhưng việc âm thầm nuôi dưỡng đức tin và củng cố lòng cậy mến đã giúp giáo phận hồi phục và tiến triển khi cơ hội đến : chuẩn bị các dự tu nhập đại chủng viện, củng cố các xứ đạo cũ và hình thành các xứ họ mới, xây dựng lại các công trình và cơ sở tôn giáo… Đáng ghi nhận ở đây là sự hợp nhất và đồng thuận của mọi tầng lớp trong giáo phận, giữa chủ chăn và đoàn chiên, bền tâm và nhiệt thành vượt qua những khó khăn của hoàn cảnh và thời cuộc để tiếp tục nuôi dưỡng và phát huy tiềm năng sống và minh chứng đức tin.
3- Theo dòng lịch sử đất nước :
Những biến cố thăng trầm trong dòng lịch sử đất nước vẫn luôn trở thành những khả năng để thanh luyện hoặc phát triển Giáo hội địa phương. Vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng từng là nơi xảy ra và tiếp nhận nhiều biến cố đặc biệt theo vận mệnh của đất nước. Đó là cuộc hành trình về phương Nam của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (với địa danh Dinh Trấn Thanh Chiêm, nơi đặt bản doanh tiền phương của nhiều thời Chúa Nguyễn trước khi thiết lập vương triều và đặt kinh đô tại Thuận Hóa). Đó cũng là nơi vang lên những phát súng đầu tiên (năm 1858) của thời kỳ Pháp thuộc và các cuộc đối kháng, bách hại của nhiều thập kỷ về sau ; là nơi đặt những bước chân và căn cứ quân sự đầu tiên của những quân nhân Mỹ, Hàn, Úc trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Quảng Nam – Đà Nẵng cũng là nơi tạm dung của nhiều thế hệ di dân thời cuộc : năm 1954 với hàng trăm ngàn dân di cư từ nhiều tỉnh miền Bắc ; năm 1964, 1968, 1972, 1975 với những người tản cư do chiến sự leo thang hoặc do thiên tai tàn phá một số vùng miền thuộc các tỉnh Bắc và Nam Trung Bộ (Quảng Ngãi, Quảng Tín, Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị)…
Những thăng trầm và biến chuyển của dòng lịch sử đất nước đã ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi về dân số, nhân sự và các xứ đạo tại Giáo phận Đà Nẵng, trước và sau khi thành lập. Sự chuyển đổi nơi cư trú vì lý do chiến sự, kinh tế… đã ảnh hưởng đến việc tổ chức và các hoạt động tôn giáo, nhiều khi khiến giáo phận trở nên “quá tải” hoặc “hoang vắng”. Trong bầu khí thường xuyên đối diện với những chuyển biến đó, các phương thức hoạt động công giáo tiến hành, các tổ chức cử hành sinh hoạt đạo đức, những nền nếp sống đạo quen thuộc của các địa phương đã phần nào thay đổi theo hướng hòa nhập và thăng tiến do sự tham gia của nhiều lớp giáo dân của các vùng miền. Đối diện với những “can thiệp” của lịch sử tạo nên những biến thiên trong giáo hội địa phương, Giáo phận Đà Nẵng vẫn cố gắng vượt qua những khó khăn mất mát, để sống đức tin và truyền rao những giá trị rạng ngời của Tin Mừng yêu thương và sự sống cho mọi người và mọi nơi, bằng những nỗ lực sống của mọi thành phần dân Chúa. Những số liệu về tăng tiến nhân sự (giáo dân, giáo lý viên, chức việc, chủng sinh, tu sĩ, giáo sĩ) của những năm gần đây đã cho thấy nỗ lực đó.
II- NHỮNG GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN
1- Thời kỳ sơ khai và thành lập
Ngày 18.01.1963, Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tuyên sắc “In Vitae Naturalis Similitudinem”, thiết lập tân Giáo phận Đà Nẵng, tách ra từ Giáo phận Quy Nhơn, và bổ nhiệm Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi làm Giám mục Tiên khởi Giáo phận tân lập Đà Nẵng. Lễ nhiệm chức Giám mục Chính tòa của tân giáo phận diễn ra vào ngày 01/5/1963.
Tân Giáo phận bao gồm thị xã Đà Nẵng, tỉnh Quảng Tín và tỉnh Quảng Nam, với tổng diện tích là 11.555 km2, dân số là 1.100.000 người ; tân Giáo phận có 35 địa sở, 365 họ nhánh với hơn 84.000 giáo dân và 15.000 dự tòng, 40 linh mục và một số ít nam nữ tu sĩ.
2- Các giai đoạn phát triển.
- Từ 1963 – 1975 :
Đây là thời gian xây dựng các cơ sở vật chất (tòa giám mục, tiểu chủng viện, đại chủng viện, nhà hưu dưỡng Linh mục, bệnh viện, trường học) và khởi sự các cơ chế hoạt động mục vụ và truyền giáo của tân giáo phận (các đoàn thể Công giáo tiến hành, Hội đồng mục vụ giáo xứ, giáo phận và các ủy ban mục vụ chuyên biệt)..
Trong thời gian 12 năm xây dựng của thời kỳ này, thống kê năm 1975 cho thấy Giáo phận có 94.580 giáo dân sinh hoạt trong 35 giáo xứ thuộc 4 giáo hạt là Đà Nẵng, Hòa Khánh, Hội An, Tam Kỳ. Con số linh mục đã tăng lên 105 vị, trong đó có 6 linh mục ngoại quốc, nhiều linh mục trở về phục vụ Giáo phận sau thời gian được gửi đi du học tại Ý, Pháp, Mỹ… Con số đại chủng sinh là 73 thầy, theo học tại Giáo hoàng học viện Đà Lạt, Đại Chủng viện Xuân Bích Huế, Đại Chủng viện Hòa Bình tại Giáo phận, cùng với 238 tiểu chủng sinh các lớp tại Tiểu Chủng viện Thánh Gioan Đà Nẵng. Số tu sĩ nam nữ cũng gia tăng đáng kể, Giáo phận có 8 nam tu sĩ thuộc các Dòng Đồng Công, Gioan Thiên Chúa và Salesien, với 308 nữ tu thuộc các Dòng : Thánh Phaolô Đà Nẵng, Mến Thánh Giá Quy Nhơn, Mến Thánh Giá Huế, Con Đức Mẹ Đi Viếng, Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thừa Sai Bác Ái Vinh Sơn, Phan-xi-cô.
Điểm đặc biệt trong giai đoạn phát triển đầu tiên này là công tác xã hội rất được chú trọng, một phần do hoàn cảnh chiến tranh, dân số thành phố tăng cao. Trong phúc trình của Ban Văn hoá Giáo dục năm 1974, toàn Giáo phận có 16 trường trung học với 11.170 học sinh, 40 trường tiểu học với 23.190 học sinh. Ngoài ra, Giáo phận cũng có các cơ sở giáo dục hướng nghiệp do cơ quan Caritas tổ chức, một trường hướng nghiệp với quy mô lớn được khởi công xây dựng từ năm 1974 tại Hòa Khánh nhưng chưa hoàn thành. Về y tế, Giáo phận cũng có Dường đường Thánh Phaolô do các nữ tu Phaolô đảm trách. Đức Cha Phêrô Maria cũng tiến hành xây một bệnh viện lớn sát Toà Giám mục được đặt tên là An Bình, vừa hoàn tất khi chiến tranh kết thúc, và ngành quân đội xử dụng cho đến ngày nay. Trong giới Công giáo cũng có một số bệnh viên tư nhân như Bệnh viện Têrêxa, Bảo sanh viện Khánh vân. Ngoài ra, còn có các cô nhi viện, nhà dưỡng lão, các trại tạm cư … Truyền thông xã hội cũng được quan tâm với việc thành lập một cơ sở in ấn riêng của giáo phận (Nhà in Thanh Công) từ năm 1962 tại Giáo xứ An Hoà.
- Từ 1975 – 1988 :
Từ sau ngày 29/3/1975, thành phố và giáo phận Đà Nẵng bước vào một giai đoạn mới, dười một thể chế chính trị mới – xã hội chủ nghĩa – ảnh hưởng đến mọi lãnh vực kinh tế, xã hội và tôn giáo. Giáo phận Đà Nẵng cũng khởi đầu một thời kỳ sống và minh chứng đức tin mới với định hướng mục vụ “« Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” theo Thư Chung 1980 của HĐGMVN: Trước hết, hầu hết các cơ sở giáo dục và từ thiện của Giáo phận đều bàn giao cho Chính quyền địa phương quản lý xử dụng. Tiểu Chủng viện Thánh Gioan ngưng sinh hoạt. Các đại chủng sinh của giáo phận tại Đại Chủng viện Hoà Bình tại Hoà Khánh được chuyển về Giáo xứ Phú Thượng cho đến năm 1982 thì cũng giải thể. Nhiều linh mục và giáo dân của Đà Nẵng cũng đã theo dòng người di tản và di cư đến nhiều nơi khác trong và ngoài nước khiến cơ cấu và sinh hoạt của các xứ đạo trong giáo phận cũng bị biến đổi – giải thể hoặc sáp nhập lại với nhau. Ước tính khoảng 40-50 nghìn giáo dân rời khỏi giáo phận. Số giáo dân còn lại khoảng 40 nghìn người.Hoạt động tôn giáo, việc mục vụ, việc đi lại thăm viếng và ban các bí tích gặp nhiều khó khăn và hạn chế, đặc biệt, công tác đào tạo nhân sự, việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển linh mục rất khó khăn.
Đây cũng là giai đoạn chuyển giao giáo vụ giữa vị Giám mục tiên khởi Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi (qua đời ngày 21/1/1988) và vị giám mục phó F.X Nguyễn Quang Sách (được tấn phong ngày 06/6/1975) nhiệm chức từ ngày 21/1/1988.
- Từ 1988 – 2000 :
Đây là khoảng thời gian thuận tiện để giáo phận tiến hành việc xây dựng và trùng tu những ngôi nhà thờ bị xuống cấp do thời gian hoặc bị chiến tranh tàn phá: Nhà thờ giáo họ Phước Ấm (1988), Chính Trạch, Nhượng Nghĩa (1991), An Trường, Ngọc Sơn (1992), Hà Lam, Hội Yên, Thuận Yên, (1993), Tam Kỳ, Phú Hương, Chiêm Sơn (1994), Ái Nghĩa, Lộc Hòa, Thanh Bình (1995), Hoằng Phước, Tam Thành, Hoà Trung (1996), La Nang, Mỹ Xuyên (1997), Tam Lộc, Trung Phước (1998), Thanh Đức, Hòa Lâm, Hoà Cường (2000). Các hoạt động tôn giáo và việc đào tạo phát triển nhân sự cũng được tổ chức và đạt kết quả ban đầu. Từ năm 1988-1998, Giáo phận đã có thêm 15 linh mục mới, tất cả đều là những đại chủng sinh của Giáo phận từ trước năm 1975. Số tân linh mục dần dần đáp ứng nhu cầu thiếu hụt trầm trọng trước đây.
Ngày 21/9/1994, Đại chủng viện Huế được tái hoạt động sau 20 năm bị đóng cửa và tiếp tục được trao cho các linh mục Hội Xuân Bích đảm nhận việc đào tạo linh mục tương lai cho 3 giáo phận Huế, Đà Nẵng, Kontum. Cha Phaolô Nguyễn Bình Tĩnh, thuộc Hội Xuân Bích Việt Nam, quản xứ An Hải, Đà Nẵng, được Tỉnh Hội Xuân Bích Pháp chọn làm Giám đốc Đại Chủng viện Huế.
- Từ 2000 đến nay :
Cùng với Giáo hội hoàn vũ cử hành Đại Năm Thánh 2000, kỷ niệm 2000 năm Chúa Giêsu sinh ra, Giáo phận Đà Nẵng bước vào một giai đoạn phát triển khác, với những định hướng mang tính toàn diện bao gồm việc mục vụ và loan báo Tin Mừng. (Khánh Thọ, Việt An, Vân Đoã, Chợ Chiều, Đông Vinh và An Ngãi Đông), nâng tổng số giáo xứ trong Giáo phận lên đúng 50.. Từ năm 2008, công tác phát triển ơn gọi cũng được chú trọng với việc chính thức tập trung và thành lập Cộng đoàn dự tu – tiền Chủng viện với Thánh hiệu Gioan Tông đồ, tiếp nối truyền thống của Tiểu Chủng viện Thánh Gioan trước năm 1975. Một số đoàn thể tông đồ, bác ái cũng đã được tái lập và mở rộng hoạt động tại nhiều giáo xứ trong giáo phận: Hùng Tâm Dũng Chí, Thiếu Nhi Thánh thể, Caritas, chương trình Thăng tiến Hôn nhân Gia đình (2010), Phong trào Cursillos (2012), giúp huấn luyện tông đồ giáo dân.
Ngoài ra, các chương trình bác ái xã hội, giáo lý cũng được phát động và thực hiện: – Căn Nhà Đồng Tâm (sau trận siêu bão Xangsane để xây dựng những căn nhà chống bão cho các nạn nhân và người nghèo). Nhờ sự hỗ trợ và cộng tác của nhiều người, nhiều tổ chức, trong vòng 2 năm, chương trình đã xây dựng được 517 căn nhà); – Chương trình giáo lý cộng đồng cho toàn giáo phận nhằm đưa giáo lý của Hội Thánh đến cho mọi người qua việc học hỏi chung tại mỗi giáo xứ vào các Thánh lễ ngày Chúa Nhật. Đây cũng là chương trình nhân dịp Giáo phận bước vào 3 năm chuẩn bị mừng Kim Khánh Giáo phận (năm 2013).
Giáo phận đã ký hợp đồng mục vụ với 05 Hội dòng: Dòng Chúa Cứu Thế nhận phục vụ tại Giáo xứ Tiên Phước (năm 2010), Dòng Ngôi Lời nhận Giáo xứ Trung Phước, Tu hội Truyền giáo Thánh Vinh Sơn nhận Giáo xứ Hội Yên, Dòng Thánh Thể chính thức nhận Trung tâm Mục vụ Di dân tại Giáo họ An Ngãi Đông (năm 2011), Dòng Đồng Công nhận Giáo xứ Thuận Yên (năm 2012) và Dòng Tên nhận Giáo họ biệt lập Hoà Minh (năm 2015). Cũng trong thời gian chuẩn bị mừng 50 năm thành lập giáo phận, Đức Cha Giuse cũng đã thành lập thêm các giáo xứ : Khánh Thọ, Vân Đoã, Việt An (thuộc giáo hạt Tam Kỳ), Chợ Chiều (thuộc giáo hạt Hội An), Đông Vinh, An Ngãi Đông (thuộc giáo hạt Hoà Vang) cho tròn số 50 giáo xứ trong giáo phận.
Đại Hội Dân Chúa Giáo phận năm 2012 được tổ chức từ ngày 17-19/10/2012 tại Trung tâm Mục vụ Giáo phận. Đại hội quy tụ 282 đại biểu gồm giám mục, linh mục, tu sĩ chủng sinh và giáo dân, đại diện các giáo xứ, dòng tu và ban ngành đoàn thể, để hoạch định chương trình mục vụ cho Giáo phận trong tương lai, nhân kỷ niệm Kim Khánh thành lập Giáo phận.
Được Toà Thánh ban phép, ngày 18/01/2013, Giáo phận tổ chức Đại lễ khai mạc Năm Thánh nhân kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng và 50 năm thiết lập Giáo phận tại Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu. Năm Thánh được kéo dài đến ngày 18/01/2015, ngày kỷ niệm 400 năm truyền giáo (18/01/1615). Ngày 01/5/2013, kỷ niệm đúng 50 năm Đức Giám mục Tiên khởi về nhiệm chức Giám mục Giáo phận mới Đà Nẵng, Giáo phận long trọng mừng Kim Khánh thành lập tại Nhà thờ Chính Toà với thánh lễ đại trào do Đức TGM Léopoldo Girelli, Đại diện Toà Thánh tại Việt Nam chủ sự và sự hiện diện của các Đức Tồng giám mục Giáo phận Huế, các đức giám mục giáo phận Qui Nhơn, Thanh Hoá và Hải Phòng.
Ngày 07/7/2013, Đức Cha Ph.X. Nguyễn Quang Sách, giám mục chính toà thứ II của giáo phận qua đời ở tuổi 88, được an táng vào ngày 11/7/2013 tại Núi Đức Mẹ Lộ Đức Nhà thờ Chính Toà Đà Nẵng
Ngày 23/01/2015, Giáo phận long trọng cử hành Thánh lễ bế mạc Năm Thánh và kỷ niệm 400 năm đón nhận Tin Mừng, với sự hiện diện của Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng trưởng bộ Phúc Âm hoá các dân tộc, Đức Tổng Giám mục Léopoldo Girelli, Đại diện Toà Thánh tại Việt Nam, Đức Tổng Giám mục Phaolô Bùi văn Đọc, Tổng giáo phận TP Hồ chí Minh, Chủ tịch HĐGMVN, Đức Tổng Giám mục Ph.X. Lê Văn Hồng, Tổng giáo phận Huế, và 11 giám mục tại Việt Nam cùng với khoảng 230 linh mục trong và ngoài giáo phận và gần 12.000 giáo dân tham dự. Cũng trong dịp này, ngày 24/11/2015, Đức Hồng Y Fernando Filoni đã làm phép Trung Tâm Mục Vụ Giáo phận. Đây là công trình “lâu năm” của giáo phận, đươc thực hiện trong nhiều giai đoạn khởi đầu từ thời Đức Cha Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh. Kể từ năm 2004, nơi đây cũng là cơ sở đào tạo của Tiền Chủng viện giáo phận, cho các ứng sinh ơn gọi linh mục trước khi chính thức được gửi vào Đại chủng viện Huế.
Năm 2015 cũng ghi dấu lần đầu tiên giáo phận thực hiện cuộc quyên góp hằng năm cho ngân sách mục vụ của giáo phận từ các giáo xứ trong toàn giáo phận vào dịp Tết Nguyên đán nhằm đạt tới khả năng tự lập, phát huy tinh thần tương trợ liên đới trong Hội Thánh.
Ngày khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót của Giáo hội hoàn vũ dịp Đại lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm 08/12/2015 cũng cần được ghi nhớ trong lịch sử Giáo phận Đà Nẵng với một biến cố đặc biệt : Giáo phận khánh thành Phòng khám An Bình tại Giáo họ Hà Bình thuộc vùng cát Huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Với Giáo phận Đà Nẵng, lịch sử hình thành và sự hiện diện của Phòng Khám này tại khu vực duyên hải Tây Quảng Nam kéo dài suốt gần 15 năm với sự quan tâm thúc đẩy của 3 vị giám mục giáo phận : Đức Cha Ph.X. Nguyễn Quang Sách, Đức Cha Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh, và Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri cùng với các cha được chỉ định phụ trách việc xây dựng với công ty xây dựng Tân Nam. Sau khi hoàn thành việc xây dựng Phòng khám, bản quyền Giáo phận Đà Nẵng đã tiến hành các thủ tục pháp lý liên quan đến việc quản trị như một cơ sở y tế phúc lợi với tên gọi : Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một Thành Viên Phòng Khám An Bình, do Toà Giám Mục Giáo phận Đà Nẵng làm chủ quản và được giao cho các tu sĩ Dòng Trợ Thế Gioan Thiên Chúa, Tỉnh Dòng Việt Nam phụ trách điều hành và quản lý cơ sở này. Ngoài ra, còn có sự tham gia cộng tác về chuyên môn của các Nữ Tu Tỉnh Dòng Thánh Phaolô Thành Chartres Đà Nẵng.
Cũng cần nhắc lại các thời điểm chuyển giáo giáo vụ giữa các vị giám mục chính toà giáo phận : 1/ Đức Giám mục Ph.X. Nguyễn quang Sách (giám mục chính tòa thứ II) và Đức Giám mục Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh (GM chính toà thứ III, tấn phong ngày 10/5/2000 và nhiệm chức ngày 06/11/2000) ; 2/ Đức Giám mục Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh và Đức tân Giám mục Giuse Châu ngọc Tri (GM chính toà thứ IV, sắc phong GM ngày 12/5/2006, tấn phong và nhậm chức ngày 04/8/2006) ; 3/ Đức Giám mục Giuse Châu Ngọc Tri và Đức Giám mục Giuse Đặng Đức Ngân (GM chính toà thứ V, sắc phong ngày 12/3/2016 và nhậm chức ngày 12/4/2016)
- Hiện tình
Giáo phận Đà Nẵng theo thống kê năm 2014 có 50 giáo xứ, 3 giáo họ biệt lập, phân bố trong 5 giáo hạt thuộc tỉnh Quảng Nam và Thành phố Đà Nẵng. Số giáo dân là 68.371 trên tổng số dân trong cùng địa bàn và cùng thời kỳ là 2.348.070 người, chiếm tỉ lệ khiêm tốn là 2,8%. Tổng số linh mục trong Giáo phận là 105 vị, trong đó có 81 linh mục giáo phận và 24 linh mục đến từ các Hội dòng. Hiện có 235 nữ tu thuộc các hội dòng đang phục vụ tại Giáo phận và 32 đại chủng sinh đang theo học tại Đại Chủng viện Huế hoặc đang thực tập mục vụ. Về Giáo lý, hiện nay có 925 giáo lý viên phụ trách việc giảng dạy cho 10.271 học viên giáo lý các cấp. Năm 2015, số người lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy trong toàn giáo phận là 528 người lớn, 1.461 sơ sinh và trẻ em.
III. KẾT LUẬN
Sắc lệnh “Tông Đồ Giáo Dân” của Công đồng Vatican II đã viết : “Giáo dân đem Tin Mừng thấm nhuần và làm hoàn hảo những công việc trong phạm vi trần thế… Để qua chính công việc trần thế thành chứng tá sáng tỏ về Chúa Kitô và góp phần vào công trình cứu độ” (SL.TĐ/GD, số 2). Ý thức về những chuyển biến (thuận tiện và thách đố) của cuộc sống hiện nay, đồng thời với xác tín trách nhiệm rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng trong chính thế giới đang sống, mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo phận Đà Nẵng vẫn tiếp tục phát huy truyền thống sống đạo trung kiên, tìm kiếm mọi cơ hội để rao giảng và minh chứng đức tin trong hoàn cảnh xã hội này.
Cha Antôn Trần văn Trường, nguyên Tổng Đại Diện Giáo phận Đà Nẵng, trong phần kết thúc bài tiểu luận về Đà Nẵng “40 năm Giáo phận, 40 năm Công đồng Vatican II” (vào dịp kỷ niệm 40 năm thành lập Giáo phận năm 2003) đã có những nhận định về Giáo phận, cũng là những suy nghĩ khi nhìn lại lịch sử Giáo phận và hướng tới tương lai, như sau :
“Ra khỏi Tù Rôma, Thánh Phaolô đi giảng tiếp, nhưng khác trước nhiều : vì tư tưởng Phaolô thời gian ngồi tù đã đi vào những chiều kích mới, vượt xa ranh giới đối đầu với Lề Luật, với Hi-lạp ; bây giờ là với con người, với thế giới vạn vật, thế giới tạo dựng. (Xem Ngục thư Êphêsô).
“Đi đày Babylon về, Do thái giáo mới trở thành tôn giáo thực thụ : “Giavê của Israel” trở thành Thiên Chúa muôn dân. Một khái niệm Giáo Hội vượt thời gian không gian bắt đầu thành hình. Lòng đạo đức đã đi vào chiều sâu tôn giáo : khiêm nhu, khó nghèo ; báo trước Tám mối phúc thật.
“Giáo phận Đà Nẵng cũng như Giáo hội hoàn vũ sau Vatican II có thật thấm thía bài học Sa mạc, để dấn thân, bất chấp mọi sự, để tiến về Đất Hứa, hay lại sa chước cám dỗ Củ hành củ tỏi của Êgyptô !”
“Giáo lý tình thương tiền nhân tiếp nhận
Tin Mừng cứu độ hậu thế truyền rao”
(lược ghi theo các tư liệu được lưu giữ tại Toà Giám mục Đà Nẵng)