Chúa Nhật II Phục Sinh Năm C- Kính Lòng Chúa Thương Xót

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH. CUỐI TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH.

KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT.

Giáo xứ Hòa Lâm và Giáo họ Chiêm Sơn Chầu Thánh Thể.

GIÁO HUẤN SỐ 22

Tông huấn HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ

PHÂN ĐỊNH (tiếp theo)

 “Phân định là việc cần thiết không chỉ vào những thời khắc đặc biệt, khi chúng ta cần giải quyết những vấn đề lớn và đưa ra những quyết định quan trọng. Nó là một phương thế của cuộc chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta đi theo Chúa cách trung thành hơn. Chúng ta cần phân định mọi lúc, để có thể nhận ra kế hoạch mà Chúa sắp xếp, hầu tránh bỏ hụt những gợi ý Ngài ban cho và tránh xem thường lời Ngài mời gọi ta lớn lên. Rất thường, việc phân định được làm trong những việc nhỏ và có vẻ không phù hợp, vì sự cao cả của tinh thần được thể hiện trong những thực tại đơn giản hằng ngày. Nó liên quan đến việc cố gắng sao cho không cản trở tất cả những gì là cao quí, những gì là tốt hơn và đẹp hơn, trong khi đồng thời quan tâm đến những chuyện nhỏ, những bổn phận và trách nhiệm trong đời sống hằng ngày. Vì thế, tôi kêu gọi tất cả các Kitô hữu đừng bỏ qua việc “khảo sát lương tâm” hằng ngày cách chân thành, được làm trong đối thoại với Chúa. Việc phân định cũng giúp chúng ta nhận ra những phương tiện cụ thể mà Chúa cung cấp trong kế hoạch yêu thương mầu nhiệm của Người, để thúc đẩy chúng ta không dừng lại chỉ ở những ý hướng tốt lành mà thôi”. (Tông huấn Hãy Vui mừng Hoan hỉ, số 169).

 

 PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31

Bài Ðọc I: Cv 5, 12-16

“Số người tin vào Chúa ngày càng gia tăng”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Khi ấy, các Tông đồ làm nhiều phép lạ và nhiều việc phi thường trong dân, và tất cả mọi người tập họp tại hành lang Salômôn; nhưng không một ai khác dám nhập bọn với các tông đồ. Nhưng dân chúng đều ca tụng các ngài. Số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng, đến nỗi họ mang bệnh nhân ra đường phố, đặt lên giường chõng, để khi Phêrô đi ngang qua, ít nữa là bóng của người ngả trên ai trong họ, thì kẻ ấy khỏi bệnh. Ðông đảo dân chúng ở những thành phụ cận Giêrusalem cũng tuôn đến, mang theo bệnh nhân và những người bị quỷ ám. Mọi người đều được chữa lành.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 117, 2-4. 22-24. 25-27a

Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”.

Xướng: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, nên chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.

Xướng: Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi.

 

Bài Ðọc II: Kh 1, 9-11a, 12-13. 17-19

“Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời”.

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự gian truân, vương quyền và kiên nhẫn trong Ðức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô vì lời Chúa và vì làm chứng Ðức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe phía sau tôi có tiếng phán lớn như tiếng loa rằng: “Hãy viết những điều ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy giáo đoàn ở Tiểu Á”. Tôi quay lại để xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó tôi thấy một Ðấng giống như Con Người, mặc áo dài và ngang lưng thắt một dây nịt bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã xuống như chết dưới chân Người; Người đặt tay phải lên tôi và nói: “Ðừng sợ, Ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau cùng, Ta là Ðấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này”.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 20, 29

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. – Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 20, 19-31

“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.

Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!”

Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

Ðó là lời Chúa.

SUY NIỆM I

Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang

DẤU ẤN CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

Hôm nay, Hội Thánh long trọng mừng kính Lòng Thương Xót nhầm mời gọi chúng ta hãy nhìn lại dấu ấn Lòng Thương Xót để lại cho chúng ta từ Cựu ước đến Tân ước nhờ đó chúng ta biết kính sợ, tôn thờ và mến yêu Thiên Chúa hết lòng hết sức hết linh hồn đồng thời hy vọng vào Lòng Thương Xót Chúa vẫn tiếp tục yêu thương và ban phát mọi ơn cho chúng ta qua mọi thời đại.

          Trước hết, chúng ta thấy ngay từ khi tạo dựng trời đất vũ trụ. Thiên Chúa tạo dựng con người (Adam và Eva) theo hình ảnh Thiên Chúa: trí khôn, linh hồn bất tử, được hạnh phúc và sống đời đời, làm con cái. Đây chính là dấu ấn của Lòng Thương Xót Chúa. Thế rồi, con người phạm tội không vâng lời Thiên Chúa mà nghe theo lời quỷ cám dỗ ăn trái cấm mà bị phạt: phải đau khổ, phải chết cả hồn lẫn xác, mất hạnh phúc đời đời và không còn làm con cái Thiên Chúa nữa. Thế nhưng, Thiên Chúa không bỏ mặc con người và hứa ban dấu ấn lòng thương xót con người là Đấng cứu chuộc cho con người. Từ đây con người luôn tin tưởng và hy vọng dấu ấn Lòng Thương Xót Chúa. Thế rồi trong khi Dân Chúa 40 năm đi trong sa mạc tiến về Đất Hứa, Dân Chúa bất trung không tin và hy vọng vào Thiên Chúa nữa. Bấy giờ ĐỨC CHÚA cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Dân đến nói với ông Mô-sê: Chúng tôi đã phạm tộivì đã kêu trách ĐỨC CHÚA và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu ĐỨC CHÚA để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi.” Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân. ĐỨC CHÚA liền nói với ông : “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống” (Ds 21,4-9). Nhìn lên rắn đồng thì được sống phần xác, không phải con rắn chữa lành mà Thiên Chúa chữa lành và được sống nhờ lòng tin, vâng lời và hy vọng của Dân Chúa chứ con rắn chỉ là tạo vật mà thôi. Con rắn là dấu để chỉ Lòng Thương Xót Chúa cứu độ dân Người. Con người muốn cứu độ phải nhìn ra dấu chỉ và hy vọng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Cho nên thời Tân ước, cụ thể khi Chúa Giêsu rao giảng Ngài nói:Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạcCon Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14). Con Người đây chính là Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, chịu nạn, chịu chết và sống lại. Dấu ấn Hy Vọng Lòng Thương Xót Chúa của Dân Chúa thời Cựu ước nay đã tỏ hiện rõ ràng cụ thể qua Chúa Giêsu và nhờ cái chết và sống lại của Chúa Giêsu mọi người được làm con Thiên Chúa, giao hòa với Thiên Chúa và mọi người với nhau, nhất là được sống lại trong ngày sau hết và hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa đời đời.

Cụ thể, bài Phúc âm hôm nay kể: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em! ” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các ông vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,19-20). Tại sao Chúa Giêsu cho các ông “xem tay và cạnh sườn”? Thưa Chúa Giêsu cho các ông thấy những vết sẹo, đó là những dấu ấn của thương xót của Chúa dành cho các tông đồ và cả chúng ta. Chúa Kitô phục sinh đã tiến vào vinh quang của Thiên Chúa, thân xác phục sinh Ngài cũng được biến đổi vinh quang. Ngài không còn phụ thuộc những hạn chế theo bản tính tự nhiên nhân loại nữa. Thế mà Ngài vẫn còn lưu giữ những vết sẹo của lòng thương xót trên thân thể phục sinh của Ngài. Và Ngài đã cho các môn đệ xem những vết thương xót đó như bằng chứng xác thực rằng Ngài đã chịu chết và nay đã phục sinh chỉ vì thương chúng ta cứu độ chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Vì thế, mỗi lần chúng ta nhìn những vết sẹo trên thân thể Chúa Giêsu là vết sẹo tình thương, chứ không phải những vét sẹo xấu xí và khổ nhục để từ đó chúng ta hy vọng và tín thác vào Chúa để sống thánh thiện, bác ái, hy sinh, tha thứ như Ngài chứ đừng bao giờ độc ác, gian tà, tội lỗi hay nhẫn tâm nữa.

Khi các môn đệ nhìn thấy các vết thương tình của Chúa Giêsu, thì vui mừng. Tại sao vui mừng? Vì Chúa Giêsu là Thầy là Chúa phục sinh đang hiện diện trước mặt các ông, và những vết thương rành rành của Chúa đây nên không thể lầm lẫn Chúa mình với bất cứ ai khác. Thầy đang sống và sống trong vinh quang, sống không bao giờ chết nữa. Những vết sẹo còn trên thân mình Chúa Kitô phục sinh không còn là dấu hiệu của ô nhục thất bại đau thương nữa, mà là dấu ấn lòng thương xót của Chúa dành cho chúng ta từ nay cho đến ngàn thu mở đường hy vọng cho chúng ta tiến vào hạnh phúc, sức sống dồi dào ngay từ đời này và sự sống vĩnh cửu mai sau. Cho nên, Chúa Giêsu để lại những vết sẹo của lòng thương xót Chúa để chữa lành chúng ta. Vâng, nhờ cuộc phục sinh của Ngài mà Ngài chữa lành tật bệnh con người, đặc biệt căn bệnh tội lỗi và ban cho chúng ta bình an, hạnh phúc, đức tin, đức mến nhất là đức hy vọng để giúp chúng ta vượt qua bao thử thách, khó khăn trong đời. Chính vì vậy mà khi được sờ được những vết sẹo của lòng thương xót Chúa mà ông Tôma đã tin và tuyên xưng cách mạnh mẽ: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.

Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy siêng năng chạy đến với lòng thương xót Chúa để được gặp gỡ Chúa, tiếp tục hy vọng, tin tưởng và tín thác vào lòng thương xót qua Chúa Kitô phục sinh, chúng ta sẽ được tràn đầy niềm vui, bình an, hạnh phúc và hy vọng để sống đức tin can trường qua mọi hoàn cảnh trong đời để Lời Chúa xác quyết với mỗi người chúng ta rằng: “Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là Đấng đã kêu gọi chúng ta vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Ki-tô. Phần chúng ta là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho chúng ta  được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1Pr 5,10). Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin thương xót chúng con. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Đức Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Amen.

 

 SUY NIỆM II

ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, O.P.

Ngôi mộ trống

Thoạt đầu là chứng nhận của giác quan: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, nhiều người phụ nữ, trong đó có bà Maria Mácđala, đi ra mồ Đức Giêsu để khóc thương Người. Các bà thấy hòn đá lấp cửa mồ đã được lăn qua một bên, thế là các bà vội vã về báo cho các môn đệ biết rằng xác của Thầy đã bị người ta lấy đi rồi.

Ngôi mộ trống tự nó không nói lên điều gì, không chứng minh được gì, cần phải có ánh sáng của Chúa Kitô phục sinh soi chiếu vào, sự kiện ấy mới mang ý nghĩa trọn vẹn. Nguyên nó chỉ có nghĩa là ngôi mộ đã bị xâm phạm, xác người chôn trong mộ đã bị lấy mang đi.

Sự kiện mồ trống không bao lâu sau đã được các tín hữu hiểu ra ý nghĩa nhờ Kinh Thánh Cựu Ước. Tức là sự kiện ấy hợp với chương trình của Thiên Chúa liên quan đến Đức Giêsu. Thánh vịnh 16 giúp các tín hữu hiểu rằng thân xác của Đức Giêsu không phải chịu cảnh hư nát trong mồ (x. Cv 2,2531). Tin Mừng thánh Gioan hôm nay cũng cho thấy rằng, cần phải dựa vào Kinh Thánh Cựu Ước để thấy để hiểu sự kiện Đức Giêsu phục sinh: thân xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa, đó là điều hợp với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Kế hoạch này đã được tỏ bày trong Kinh Thánh: Đức Giêsu đã được Thiên Chúa cho phục sinh từ cõi chết.

Cả hai ông Phêrô và Gioan đều chạy tới, cùng chứng kiến ngôi mộ trống và thấy khăn liệm Đức Giêsu đã được gấp lại hẳn hoi và đặt riêng một bên. Sự kiện này cho thấy rằng xác không thể bị đánh cắp.

Và tất cả, ngôi mộ trống và khăn liệm vẫn còn đó, cho thấy điều gì? Đức Giêsu, Đấng đã được mai táng ở đây, nơi người chết, hiện không còn ở đây, nơi người chết nữa. Thế thôi. Vậy Người đang ở đâu?

Người đã phục sinh

“Ông đã thấy và ông đã tin”. Giữa sự kiện, tức là những gì giác quan cảm thấy và lòng tin có một khoảng cách, một sự nhảy vọt. Mồ trống, khăn liệm vẫn còn cho thấy Đức Giêsu không còn trong mồ nữa. Nhưng để tin rằng Người đã phục sinh, cần phải có ánh sáng của Thiên Chúa soi chiếu.

Hai môn đệ làng Emmau cũng thế. Cứ trò chuyện với người khách lạ mà mắt vẫn như có cái gì che phủ khiến không thể nhận ra người khách lạ kia chính là Thầy mình, là Đức Giêsu đã phục sinh đang đồng hành với mình trên lộ trình vật chất lẫn lộ trình sầu buồn trong tâm hồn. Phải đến lúc mắt các ông như được mở ra, các ông mới nhận ra Người và mới hồi tưởng lại những gì mình đã cảm thấy khi còn trò chuyện với Người dọc đường. Vẫn cần có một khoảng cách, một bước nhảy, một sự mở mắt giùm để có thể nhận ra Đức Giêsu phục sinh.

Hay như ông Tôma. Nằng nặc đòi chứng nghiệm thân thể thương tích của Thầy. Đến khi Thầy bảo xỏ ngón tay vào lỗ đinh trên tay Thầy, xỏ bàn tay vào thương tích ở cạnh sườn Thầy thì ông lại tuyên xưng Thầy bằng tước hiệu dành cho Đấng phục sinh: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!” Lại cần có một sự nâng đỡ để có thể nhảy từ lãnh vực chứng nghiệm bằng giác quan sang lãnh vực nhận biết bằng cảm quan thiêng liêng, bằng đức tin.

Và như Bà Maria Mácđala. Rõ ràng Đức Giêsu phục sinh đang đứng đó. Nhưng bà lại cứ ngỡ rằng đó là ông làm vườn. Bà chân thành hỏi ông, xin ông chỉ cho biết chỗ ông đã giấu xác Thầy, người Thầy bà quí mến. Phải đến khi Đức Giêsu gọi tên bà, thì ông lúc nãy bà cho là người làm vườn không còn là người làm vườn nữa mà đúng là Thầy bà đang đi tìm. Tin Mừng nói rằng Đức Giêsu phục sinh gọi tên bà. Nhưng đó không phải là nhận ra một giọng nói quen thuộc, mà là một kiểu cách cho thấy có một ánh sáng từ Đấng Phục sinh soi chiếu cho con người có thể vượt lên trên lãnh vực giác quan tự nhiên để sang lãnh vực đức tin. Tin Đức Giêsu đã phục sinh.

Niềm tin căn bản

“Chúa đã phục sinh”. Đó là lời rao giảng đầu tiên của thánh Phêrô và các Tông đồ. Các ông chứng minh, dựa vào Kinh Thánh, cho các thính giả biết rằng Đức Giêsu, con người đã bị kết án đóng đinh đã chết, đã được mai táng, nhưng đã phục sinh và được Thiên Chúa tôn làm Chúa. Đó chính là điều căn bản nhất. Trước khi có những chỉ dẫn phải sống như thế nào, phải cư xử làm sao cho xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu, điều căn bản, điều phải có trước hết, đó là lòng tin Đức Giêsu đã chỗi dậy từ trong cõi chết. Chính đây là điểm phát xuất những đòi buộc luân lý. Và như thế phải sống thế nào, cư xử làm sao, chỉ là lời đáp lại một ân huệ quí giá mình đã được, hơn là một cái gì ràng buộc mình.

Niềm tin này căn bản đến độ nếu không có thì sẽ không có gì hết, và những người tin Đức Giêsu chỉ sống ở đời này mà thôi sẽ là những kẻ khốn nạn nhất trong thiên hạ. Thánh Phaolô đã quả quyết như thế, ấy là chưa nói đến chuyện không có niềm tin này, mọi chứng tá đều là hư không, nhất là lại đi ngược với Thiên Chúa nữa.

Cùng với Thánh Thần, Hồng Ân Đức Giêsu ban tặng, người tín hữu vẫn cần nỗ lực không ngừng để vượt qua những giới hạn của giác quan đạt tới niềm tin sống động và hoạt động. Chính niềm tin sống động này sẽ biểu lộ một cách thật tự nhiên ra cuộc sống theo như những lời mời gọi của Tin Mừng. Khoa học cứ tiến, nhưng vẫn có một khoảng cách giữa những thành tựu của khoa học và đức tin. Chính Thiên Chúa tạo đà nhảy để vượt qua khoảng cách này. Nói cách khác, đức tin là một hồng ân Thiên Chúa ban tặng. Như thế, tâm hồn chân thành tìm kiếm chính là thái độ biết xin, biết sẵn sàng để đón nhận hồng ân quý báu đó.

SUY NIỆM III

LÒNG THƯƠNG XÓT TỪ THIÊN CHÚA CÓ KHẢ NĂNG BIẾN ĐỔI

Jn.nvh

Kính thưa quý ông bà và anh chị em.

Một người hành khất sống lặng lẽ bên lề đường, ngày qua ngày đối diện với cái đói, cái lạnh và sự cô đơn. Một buổi chiều, vị linh mục đi ngang qua, thấy ông co ro trong manh áo rách, bèn dừng lại hỏi: “Tôi có thể giúp gì cho ông?”. Người hành khất, ánh mắt mệt mỏi, đáp: “Cha ơi, tôi quen với cảnh này rồi, chẳng cần gì đâu”. Nhưng vị linh mục không vội rời đi. Ông ngồi xuống, trò chuyện chân thành, rồi trao cho người ấy một ổ bánh mì và chiếc áo ấm. Đôi mắt người hành khất ngấn lệ, ông thì thầm: “Tôi không ngờ trên đời này còn có người để tâm đến tôi”. Từ đó, ông dần thay đổi: tìm việc làm, xây dựng lại cuộc đời. Anh chị em thân mến, không phải ổ bánh mì hay chiếc áo làm nên phép lạ, mà chính tình thương chạm đến tận sâu tâm hồn đã khơi dậy một cuộc sống mới.

Hôm nay, Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, Lời Chúa từ sách Công vụ Tông đồ, sách Khải Huyền và Phúc Âm theo Thánh Gioan như dòng suối mát lành, mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình thương vô biên của Thiên Chúa và trở thành những nhịp cầu mang tình thương ấy đến với tha nhân.

Sách Công vụ Tông đồ mở ra khung cảnh Giáo hội sơ khai tràn đầy sức sống. Các Tông đồ thực hiện nhiều dấu lạ, dân chúng ngợi khen, và số người tin vào Chúa ngày càng đông. Người ta mang bệnh nhân ra đường, chỉ mong bóng Thánh Phêrô lướt qua là đủ để được chữa lành. Sức mạnh nào đứng sau những phép lạ ấy? Chính là lòng thương xót của Thiên Chúa, tuôn chảy qua bàn tay các Tông đồ, chữa lành thân xác và đánh thức niềm tin trong lòng người. Đức Thánh Cha Phanxicô từng nói: “Lòng thương xót là nhịp tim của Thiên Chúa, là cách Ngài cúi xuống để nâng chúng ta lên từ những yếu đuối” (Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới 2016). Sống giữa nhịp đời hối hả, chúng ta không lạ gì những vết thương của con người: bệnh tật, cô đơn, hay những rạn nứt trong gia đình. Nhưng hình ảnh bóng Thánh Phêrô nhắc nhở rằng không có nỗi đau nào nằm ngoài vòng tay Chúa. Lòng thương xót của Ngài luôn sẵn sàng chữa lành, qua Bí tích Hòa giải và Thánh Thể, nếu chúng ta biết chạy đến với Ngài bằng lòng tin cậy.

Sách Khải Huyền đưa chúng ta đến giấc mơ kỳ vĩ của Thánh Gioan trên đảo Patmô. Ông thấy Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng tuyên bố: “Ta đã chết, nhưng nay Ta vẫn sống đến muôn đời”. Khi Gioan ngã quỵ vì kinh ngạc, Chúa dịu dàng đặt tay lên ông và phán: “Đừng sợ”. Anh chị em có cảm nhận được sức mạnh của lời an ủi ấy không? Dù trong cảnh tù đày, dù cuộc sống đầy thử thách, Chúa vẫn hiện diện, mang theo bình an và hy vọng. Kinh Thánh vang vọng: “Tình thương Chúa bền vững đến ngàn đời” (Tv 136,1). Đức Thánh Cha Phanxicô từng chia sẻ: “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ, chỉ có chúng ta đôi khi mệt mỏi xin Ngài thứ tha” (Bài giảng tại Nhà thờ Thánh Marta, 2013). Giữa dòng đời, chúng ta dễ để lòng mình khô cạn vì tội lỗi, nghi ngờ hay chán nản. Nhưng Chúa Phục Sinh, Đấng nắm giữ sự sống và cái chết, đang nói với mỗi người: “Đừng sợ, hãy tin vào tình thương của Ta”. Lòng thương xót mời gọi chúng ta sống cụ thể: tha thứ cho chính mình, mở lòng với người khác, để mỗi mái ấm, mỗi góc phố trở thành nơi tỏa sáng tình yêu của Chúa.

Phúc Âm dẫn chúng ta vào căn phòng đóng kín, nơi các môn đệ đang run sợ. Chúa Giêsu hiện đến, chào họ: “Bình an cho anh em”, và cho họ xem tay cùng cạnh sườn – dấu ấn của tình yêu hy sinh. Tám ngày sau, Người trở lại vì Tôma, người môn đệ cứng tin. Chúa không trách mắng, nhưng dịu dàng nói: “Hãy đặt tay vào cạnh sườn Thầy, đừng cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thốt lên: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!”. Qua Tôma, chúng ta thấy lòng thương xót của Chúa thật kiên nhẫn, biến nghi ngờ thành lời tuyên xưng đức tin. Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh: “Lòng thương xót là sức mạnh làm thay đổi thế giới, chứ không phải sự yếu đuối” (Tông sắc Misericordiae Vultus, số 3). Nhịp sống hối hả hằng ngày, chúng ta dễ rơi vào thái độ như Tôma: nghi ngờ tình thương của Chúa khi gặp khó khăn, hay khép lòng với anh em. Nhưng Chúa mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn để Ngài bước vào ban bình an. Tin vào lòng thương xót không chỉ là cảm xúc thoáng qua, mà là hành động cụ thể: một lời xin lỗi chân thành, một bàn tay chìa ra giúp đỡ, hay một khoảnh khắc lắng nghe người đang cần sẻ chia.

Anh chị em thân mến, Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót hôm nay thúc đẩy chúng ta sống như những Tôma mới – vượt qua nghi ngờ để tiến tới đức tin mãnh liệt. Thánh Vịnh vang lên như lời mời gọi: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở” (Tv 118,1). Giữa nhịp sống khắc nghiệt của thành phố, chúng ta được mời gọi trở thành những nhịp cầu của lòng thương xót: mang bình an đến gia đình, trao hy vọng cho cộng đoàn, và lan tỏa tình yêu đến những ai đang lặng lẽ chịu đau khổ.

Kinh Thánh khẳng định: “Phúc cho ai biết xót thương, vì họ sẽ được thương xót” (Mt 5,7). Xin Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng giàu lòng xót thương, ban cho chúng ta trái tim rộng mở, để qua đời sống của chúng ta, ánh sáng của lòng thương xót chiếu tỏa khắp nơi. Amen.

GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

Nguồn: giaophancantho.org

“Chúng ta là những người thích nghe những câu chuyện về đời sống hằng ngày cũng như về đời sốngđức tin…Các câu chuyện đi sâu vào những nơi kín ẩn nhất trong chúng ta và mở ra cho chúng ta những cách thế mới và thân tình để hiểu nhau” – Nuala Kenny

 

  1. LÒNG THƯƠNG XÓT TRONG HÀNH ĐỘNG

Tạp chí TIME năm 1984 đã in hình một trang bìa rất đáng chú ý: trong một phòng giam có hai người đàn ông ngồi trên hai chiếc ghế xếp bằng kim loại. Chàng trai trẻ mặc một chiếc áo len cổ lọ màu xanh, quần jeans xanh và giày màu trắng. Người đàn ông lớn tuổi mặc một chiếc áo choàng trắng đội một chiếc mũ sọ màu trắng trên đầu. Họ ngồi đối mặt với nhau, cận cảnh và rất riêng tư. Họ nói nhỏ để người khác không nghe thấy cuộc trò chuyện. Người thanh niên đó tên là Mehmet Ali Agca, kẻ ám sát Giáo hoàng (hắn đã bắn và làm ngài bị thương vào ngày 13 tháng 5 năm 1981); người đàn ông kia là Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, nạn nhân chủ mưu của tên ám sát. Đức Giáo hoàng nắm lấy bàn tay đã cầm khẩu súng mà viên đạn của nó đã găm vào cơ thể của ngài. Đây là một biểu tượng sống động của lòng thương xót. Sự tha thứ của Đức Gioan Phaolô II mang đậm dấu ấn tình yêu Kitô giáo. Hành động của ngài với Ali Agca đã nói thay cho hàng nghìn lời diễn đạt. Ngài ôm lấy kẻ thù của mình và xin ân xá cho anh ta. Vào cuối cuộc gặp mặt kéo dài 20 phút của họ, Ali Agca đã cầm tay Đức Giáo hoàng và đặt lên trán của mình như một biểu hiệu của sự tôn kính. Đức Giáo hoàng dịu dàng bắt tay anh. Khi rời phòng giam, Đức Giáo hoàng nói: “Những gì chúng tôi đã nói với nhau phải được giữ bí mật. Tôi đã nói chuyện với anh ấy như một người anh em mà tôi đã tha thứ và anh là người đã hoàn toàn tin tưởng tôi”.

* Đây là một mẫu gương thể hiện Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đó chính là Lòng Thương Xót mà thánh Faustina đã cảm nghiệm và chia sẻ với chúng ta.

  1. “VẬY THÌ TÔI SẼ THƯƠNG XÓT”

Hoàng đế Napoléon đã tỏ ra rất xúc động trước lời cầu xin ân xá của người mẹ cho đứa con trai là quân nhân của bà. Tuy nhiên, Hoàng đế nói rằng vì đây là lần phạm tội nặng thứ hai của người lính, nên công lý đòi hỏi anh ta phải chết. Bà mẹ van nài: “Tôi không yêu cầu công lý, tôi xin lòng thương xót.” Nhưng hoàng đế nói: “Nó không đáng được thương xót!” Bà mẹ kêu lên: “Thưa ngài, sẽ không cần  lòng thương xót vì nó đáng bị như vậy, nhưng lòng thương xót là tất cả những gì tôi cầu xin với ngài.” Vẻ đau khổ và cách biện luận rạch ròi của người mẹ đã thúc đẩy Napoléon trả lời: “Vậy thì, tôi sẽ thương xót.”

* Chúa Nhật Thứ Hai của Mùa Phục Sinh mời gọi chúng ta suy ngẫm về tình yêu thương và lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, như được trình bày trong Kinh Thánh và như Chúa Giêsu đã sống, giảng dạy, cũng như thực hành qua sứ vụ của Người.

  1. THƯA ÔNG ĐÓ LÀ ĐIỀU TÔI SỢ

Có một câu chuyện về một người lính nọ được đưa đến trước mặt đại tướng Robert E. Lee. Anh bị buộc tội đã hành động vi phạm quân luật, người lính run rẩy sợ sệt. Vị tướng nói với anh ta: “Anh đừng sợ. Ở đây bạn sẽ được công lý soi tỏ”. Người lính nhìn viên tướng và nói: “Thưa ngài, đó chính là điều tôi sợ.” Giống như người lính đó, ông Phêrô có lý do để run sợ. Ông đã khoe khoang về lòng dũng cảm của mình, rằng ông sẽ luôn sát cánh và bảo vệ Chúa Giêsu. Tuy nhiên, khi Chúa Giêsu cần ông nhất, thì ông đã bỏ rơi Chúa. Có lẽ người ta có thể tha thứ cho ông vì ông đã bị cơn thèm ngủ đè nặng. Nhưng sau đó với tất cả ý thức, ông đã chối bỏ Chúa Giêsu ba lần, với cùng một lời khẳng định: “Tôi không biết người ấy. Một tảng đá mà như thế! Theo công lý nghiêm minh, Phêrô lẽ ra phải bị trừng phạt, ít nhất, bị tước bỏ tư cách người đứng đầu Giáo hội. Tuy nhiên, qua cuộc khổ nạn, Chúa Kitô đã mở ra một công lý sâu xa hơn, vượt qua những khuôn khổ cố hữu của con người. Đó là những gì chúng ta sẽ khám phá và trải nghiệm về Lòng Chúa Thương Xót này.

  1. NÂNG CAO TINH THẦN CHO NHAU

Bạn đã bao giờ nhìn thấy đàn ngỗng bay theo hình chữ V chưa? Đó là một điều tuyệt vời khi người ta tìm hiểu để biết rằng cấu hình đó là điều hết sức cần thiết để những con ngỗng có thể sống còn. Nếu chú ý lắng nghe, chúng ta có thể nhận thấy tiếng đập cánh của chúng đồng loạt bật lên tiếng rít mạnh trong không khí. Và đó chính là bí mật về sức mạnh của chúng: ngỗng đầu đàn cắt ngang sức cản của không khí, tạo ra lực đẩy giúp cho những con chim phía sau nó mất ít năng lượng hơn. Đổi lại, việc đồng loạt vỗ cánh giúp những con chim phía sau bay dễ dàng hơn, v.v. Mỗi con chim sẽ lần lượt làm đầu đàn. Những con bị mệt thì dạt ra rìa của chữ V để nghỉ, và những con còn lại lao về phía điểm đầu của chữ V để dồn thúc bầy ngỗng bay tiếp. Nếu một con ngỗng trở nên quá kiệt sức hoặc bị bệnh và phải bỏ ra khỏi đàn, nó không bao giờ bị bỏ rơi. Một thành viên mạnh hơn trong bầy sẽ theo con yếu hơn đến chỗ nó nghỉ và đợi cho đến khi con chim đủ khỏe để bay trở lại. Cùng nhau hợp tác thành đàn, ngỗng có thể bay ở cự ly xa hơn 71%, với công việc ít hơn tới 60% năng lượng.

  1. CHỮA BỆNH CHO NỖI BUỒN

Có một câu chuyện cổ của Trung Quốc về một người phụ nữ có đứa con trai duy nhất đã chết. Trong nỗi đau buồn tột độ, bà đến gặp một vị đạo sư và nói: “Lời cầu nguyện nào, câu thần chú huyền diệu nào có thể làm cho con trai tôi sống lại được?” Thay vì đuổi bà ấy đi hoặc cố gắng giải thích cho bà ấy, đạo sĩ nói: “Bà hãy đi tìm cho tôi một hạt cải từ một ngôi nhà chưa bao giờ biết đến nỗi buồn. Tôi sẽ dùng để xua đuổi nỗi buồn của bà ra khỏi cuộc sống”. Người phụ nữ tất tả đi ngay để tìm hạt mù tạt kỳ diệu đó. Trước tiên, bà ấy đến một ngôi biệt thự lộng lẫy, gõ cửa và nói: “Tôi đang tìm một ngôi nhà chưa bao giờ biết đến nỗi buồn. Đây có phải là một nơi như vậy không? Điều này rất quan trọng đối với tôi”. Họ nói với bà ấy: “Chắc bà đã đến nhầm chỗ rồi!” Và họ bắt đầu mô tả tất cả những điều bi thảm gần đây đã xảy ra với gia đình họ. Người phụ nữ tự nhủ: “Ai có thể giúp đỡ những người nghèo khổ, bất hạnh này hơn tôi, những người cũng gặp bất hạnh như tôi?” Bà ta ở lại một thời gian để an ủi họ, rồi lại tiếp tục đi tìm một căn nhà chưa bao giờ biết đến nỗi buồn. Nhưng ở bất cứ nơi nào bà ấy đến, từ những căn nhà nhỏ tồi tàn đến những nơi nơi sang trọng khác, bà ấy đều nghe thấy hết những chuyện bất hạnh này đến nỗi buồn khác. Mỗi lần như vậy bà lại tìm cách lan tỏa những năng lượng tích cực để xua tan nỗi đau của người khác, đến nỗi cuối cùng bà ấy đã quên đi cuộc tìm kiếm hạt cải kỳ diệu, và cũng quên luôn nỗi buồn trong việc mất đứa con yêu dấu.

  1. DỤC TỐC BẤT ĐẠT

Một người đàn ông nhìn thấy một tổ kén của một con bướm. Một lát sau, anh ta thấy có một lỗ nhỏ xuất hiện. Anh ngồi và quan sát con bướm trong nhiều giờ và thấy nó cố gắng ép cơ thể mình chui qua cái lỗ nhỏ đó. Nhưng dường như không tiến thêm được chút nào, như thể nó đã bò xa nhất có thể rồi. Vì vậy, người đàn ông quyết định giúp nó, anh lấy một cái kéo và cắt bỏ phần còn lại của tổ kén. Con bướm sau đó nhô ra khỏi tổ một cách dễ dàng. Nhưng nó có một cơ thể sưng tấy và đôi cánh nhỏ, teo tóp. Người đàn ông tiếp tục quan sát con bướm vì anh ta mong đợi rằng, bất cứ lúc nào, đôi cánh sẽ dang rộng và nở ra để có thể nâng cơ thể của nó lên. Nhưng cả hai điều đều không xảy ra! Thật sự, con bướm đã phải dành phần đời còn lại của mình để bò xung quanh với cơ thể sưng tấy và đôi cánh teo tóp. Chứ không bao giờ có thể bay được. Điều mà người đàn ông, với lòng tốt và sự vội vàng của mình, đã không hiểu là cái tổ kén gò bó đó và sự nỗ lực chui ra là cần thiết đối với con bướm. Chui qua lỗ nhỏ là cách mà quy luật tự nhiên đã sắp đặt để ép một chất lỏng từ cơ thể nó vào đôi cánh, tạo cho nó có thể sẵn sàng cho chuyến bay khi nó thoát ra khỏi kén.

* Đôi khi những nỗ lực và phấn đấu chính là thứ chúng ta cần trong cuộc sống. Nếu Chúa cho chúng ta đi qua cuộc đời mình mà không gặp bất kỳ trở ngại nào, điều đó có thể khiến chúng ta tê liệt. Chúng ta sẽ không thể mạnh mẽ như chúng ta có thể; chúng ta không bao giờ có thể bay! Vì vậy, những thử thách trong cuộc sống có thể là một dấu chỉ của lòng Chúa thương chúng ta.

  1. MỌI SỰ LÀM CỦA CHUNG

Theo sách Công vụ Tông đồ những Kitô hữu đầu tiên đều “một lòng một ý”. Họ chia sẻ tài sản của mình cho nhau, để không ai thiếu thốn. Một số thậm chí đã bán đồ đạc của họ và gom vào quỹ chung để chu cấp cho mọi người trong cộng đoàn. Tinh thần bác ái cao quý này không tồn tại lâu lắm, bởi vì trong những năm sau đó, những đấng lập ra các dòng tu đã phải khôi phục lại tình trạng sở hữu chung như một phần của luật dòng của họ. Vì vậy, khi thánh Bênêđictô (Biển Đức) viết điều luật cho các tu sĩ của mình vào thế kỷ thứ sáu, ngài đã ra lệnh: “Hãy để mọi sự làm của chung cho tất cả mọi người.” Con người vốn mang bản tính sở hữu. Do đó không phải tất cả các tu sĩ Bênêđictô đều sống theo lý tưởng nghèo khó cá nhân. Một lần kia một tu sĩ đã đi giảng tĩnh tâm cho một tu viện nữ gần đó. Để bày tỏ lòng cảm ơn, các nữ tu đã trao cho thầy dòng vài chiếc khăn tay. Mặc dù tu luật ghi rằng không một tu sĩ nào được nhận bất cứ thứ gì mà không qua tu viện trưởng, nhưng thầy dòng này quyết định giữ món quà nhỏ lại cho riêng mình mà không thông qua bề trên. Anh chỉ đơn giản là nhét chiếc khăn tay vào trong tu phục của mình. Nhưng việc này không bị bỏ qua. Khi anh trở lại tu viện, bề trên Bênêđictô đã mắng anh: “Làm sao mà ma quỷ lại tìm được đường đi vào tâm hồn anh như thế?” Thầy dòng này vô cùng bối rối, vì anh ta đã quên chiếc khăn tay mình đã giữ lại. Nhưng lỗi của anh đã bị tiết lộ cho tu viện trưởng Bênêđictô. Ngài nói mạnh: “Có phải vì tôi không có mặt, nên anh mới nhận những chiếc khăn tay đó phải không?” Ngay lập tức vị tu sĩ nhận biết mình có lỗi, anh quỳ xuống trước vị thánh, xin ngài tha thứ và trao món quà lại cho bề trên.

* Khi nói về cộng đoàn tín hữu đầu tiên đây là một nét son của họ, nhưng chắc chắn mỗi thành viên phải phấn đấu rất nhiều mới có thể duy trì được lí tưởng ấy. Tham vọng của cộng sản nguyên thủy: “các tận sở năng, các mãn sở nhu” (làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu) đã hoàn toàn thất bại, và bị coi là hão huyền!

Linh mục Giuse Ngô Quang Trung sưu tầm