Chúa Nhật III Mùa Chay – Năm C


Chúa Nhật III Mùa Chay

24-3-2019

CHẦU THÁNH THÊ

Giáo xứ Ái Nghĩa

Giáo họ Đại Hiệp

GIÁO HUẤN SỐ 17

Thách đố của Những Cuộc Khủng Hoảng (tt)

Lịch Giáo Phận  trang 52

Trong những hoàn cảnh như thế, một số người có sự trưởng thành cần thiết để xác nhận lại sự chọn lựa của mình, chọn lựa người kia như là người bạn đường của mình, vượt trên những giới hạn của tương quan và chấp nhận cách thực tế rằng người kia không thể đáp ứng mọi ước mơ mình ấp ủ. Họ tránh coi mình như là những người tử đạo duy nhất, quí trọng những khả năng nhỏ bé và hạn chế mà cuộc sống gia đình cống hiến cho họ và nhằm củng cố mối liên kết hôn phối mà việc xây dựng sẽ đòi hỏi thời gian và công sức. Bởi vì, xét cho cùng, họ nhận ra rằng mọi khủng hoảng đều có thể như là một lời “ưng thuận” mới, có thể làm cho tình yêu tái sinh nên mạnh mẽ hơn, được biến đổi, trưởng thành và được khai sáng. Khởi đi từ một cuộc khủng hoảng, người ta có can đảm truy tìm những gốc rễ sâu xa của những gì đang xảy ra, để đàm phán lại với nhau những thỏa ước căn bản, để đạt được một sự cân bằng mới và cùng nhau đi tiếp một giai đoạn mới. Với thái độ cởi mở thường xuyên này, họ có thể đối diện với nhiều hoàn cảnh khó khăn ! Dù bất kỳ trong trường nào, trong khi nhìn nhận hòa giải là việc có thể được, ngày nay chúng ta khám phá ra rằng “một sứ vụ dành riêng cho những người có quan hệ hôn nhân bị đổ vỡ, là đặc biệt khẩn cấp (Niềm Vui của Tình Yêu, só 238).

————————————————————-

Chúa Nhật III Mùa Chay

(Xh 3,3-8a.13-15; 1Cr 10,16.10-12; Lc 13,1-9)

Thánh lễ chiều ngày 19-3-2019, lễ Thánh Giuse, tại Nhà thờ Chính tòa, Đức cha Giuse, Giám mục Đà Nẵng, giảng rằng : “Thánh Giuse là quan thầy của Hội Thánh hoàn vũ và của Hội Thánh Việt Nam”.

Cha Đắc Lộ được sai ra Miền Bắc : Trong cuốn “Hành Trình và Truyền Giáo”, chính cha Alexandre de Rhodes  (Đắc Lộ) kể : “Tôi ở Đàng Trong chừng 18 tháng và rất hài lòng thấy số con Thiên Chúa tăng lên. Khi cha Baldinotti, tu sĩ dòng Tên, được phái từ Macao đến một lãnh thổ mới, tới nay chưa có một người nào thuộc dòng chúng tôi đến, bởi vì dòng chúng tôi nhắm tất cả vào Nhật Bản, thì tháng 3 năm 1626, ngài đã tới Đàng Ngoài trong một chiếc tầu buôn.

Cha rất nhiệt thành, nhưng đau khổ cho cha biết bao, vì trong cơ hội có một trong hai này cha đành như người câm, vì không hiểu biết ngôn ngữ xứ này. Cha đã vào yết kiến chúa Trịnh, dâng tặng phẩm và được đón tiếp trong phủ chúa. Cha nhận thấy đất nước này vừa lớn vừa đẹp, nhân dân hiền hòa, tính tình dễ thương. Thế là cha hết sức tiếc vì đã không học tiếng để có thể vun trồng đức tin trong một mảnh đất coi như đã được sửa soạn trước.

 Cha đành chỉ rửa tội được 4 trẻ nhỏ hấp hối, đó là đóa hoa đầu mùa của giáo đoàn và như 4 trạng sư về bênh vực trước tòa Chúa cho toàn dân. Thấy mình vô ích cho công trình lớn lao, chỉ vì không hiểu biết ngôn ngữ, cha liền viết thư thúc giục các cha ở Đàng Trong, nài xin và khẩn hoản các cha thương đến cả một dân tộc lớn đang không có ai đến đưa họ vào đường ngay nẻo chính. Đồng thời cha cũng viết về Macao và khi trở về thì đến trình bề trên sớm phái người biết nói tiếng đến Đàng Ngoài.

 Lòng nhân lành vô tận của Chúa đã muốn trao phó nhiệm vụ này cho tôi, bời vì Đàng Trong lúc này không cần đến tôi. Và ngôn ngữ tôi đã học được chính là cớ để bề trên đưa mắt tới tôi, phái tôi đi truyền giáo ở Đàng Ngoài. Trọng trách này, đối với tôi là một vinh dự lớn, nên tôi liền sứa soạn trẩy đi. Trong việc này có một nguy hiểm phải tránh. Đó là nếu tôi bỏ Đàng Trong mà ra thẳng Đàng Ngoài, vì hai đàng có chiến tranh với nhau, chúa Đàng Ngoài sẽ nghi cho tôi là từ đất thù địch mà đến. Vì thế, tôi phải trở về Macao. Để tránh không cho người Đàng Ngoài nghi ngờ, tôi đã bỏ Đàng Trong vào tháng 7 năm 1626, để nhiều cha can đảm ở lại nơi tôi sẽ trở lại 14 năm sau (Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên chuyển dịch, 1994, trang 60-62).

Thánh Giuse làm phép lạ : Trong tập sách “Lịch Sử Phát Triển Công Giáo Ở Việt Nam”, cha Trương Bá Cần thuật lại : “Hai linh mục Marques và Rhodes đã lên tàu ngày 12-3-1627. Sau sáu bảy ngày gió yên biển lặng, khi con tàu sắp vào cửa biển Đàng Ngoài, thì bão táp nổi lên làm con tàu có nguy cơ chìm đắm. Lm Rhodes cũng như lm Marques cho rằng đây là phản ứng của quỉ ma trước việc Tin Mừng của Chúa được đưa đến cho người Việt. Ngày 19-3-1627, ngày lễ thánh Giuse, sấm sét tan biến, sóng gió yên lặng, con tàu chở hai thừa sai dòng Tên cắm neo trước Cửa Bạng. Các giáo sĩ cho đấy là do sự che chở phù hộ của Thánh Giuse, nên đặt tên cho Cửa Bạng là cửa Thánh Giuse và nhận Thánh Giuse là quan thày của Đàng Ngoài (Sđd, Tập I, trang 113).

Tin mừng là những viên ngọc quí : Trong tập sách “Giáo Hội Công Giáo Ở Việt Nam”, cha Bùi Đức Sinh viết : “Tàu cập bến, dân chúng hiếu kỳ tuôn đến xem, vì ít khi có tàu nước ngoài đến vùng này. Cửa Bạng lúc đó cũng như ngày nay, chỉ là một vũng đánh cá của dân chài, một bến buôn cất  những hàng trong nước. Nghe nói là tàu buôn của người Bồ đem hàng vào Kinh bán, họ muốn được mắt thấy những viên ngọc quí từ Ấn Độ đưa sang, mà đời họ chỉ được nghe nói chứ chưa được nhìn thấy. Trước những con người hiếu kỳ đó, với tinh thần truyền giáo đưa Tin Mừng, hai cha không muốn để lỡ cơ hội, đem họ từ những mong muốn trần tục lên với Đấng Tối Cao… Cũng như xưa, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn”hòn ngọc” quí để giảng Nước Trời, cha Đắc Lộ từ câu chuyện  viên ngọc quí Ấn Độ, đưa những người dân chài đến với đạo Phúc Âm của Chúa trời đất. Nghe nói  là cha đem đến hạnh phúc không những ở đời này mà cả đời sau, họ chỉ hiểu là những viên ngọc vật chất và mừng rỡ trông đợi. Cha vội cải chính ngay, giúp cho họ hiểu viên ngọc quí đích thực là đạo thánh Đức Chúa Trời. Người chính là Đấng dựng nên trời đất muôn vật, mà chúng ta tất cả có bổn phận phải thờ phượng. Rồi cha giải thích chữ “Đạo” theo Hán tự, có nghĩa là “Đường” theo kiểu nói nôm na của người dân. Cha trình bày đạo Đức Chúa Trời, con đường đích thực đưa người ta tới Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc bất diệt. Kết quả là 2 người đàn anh  trong nhóm dân chài Cửa Bạng, đến xin học đạo và chịu phép rửa với cả gia đình. Một người cha đặt tên thánh Giuse, để ghi nhớ thánh bổn mạng Giáo Hội xứ Bắc; người thứ hai mang tên thánh Inhaxu, đấng tổ phụ dòng Tên. Tin thuyền buôn người Bồ dạt vào Cửa Bạng được quan sở tại cấp báo lên Kinh. Trong khi chờ đợi, cha Đắc Lộ tiếp tục sứ vụ đã bắt đầu. Trong ít ngày cha rửa tội cho 32 người, thuộc nhiều tầng lớp dân chúng, không phải chỉ nguyên khu xóm Cửa Bạng, nơi tàu đậu, mà cả những làng lân cận, dân chúng vì hiếu kỳ đến xem đã được cha truyền đạo cho. Ba người được cha nhắc đến trong số những người đầu tiên đó : là một thầy đồ, một thầy cúng và một phú hộ (sđd, Tập I, trang 124-125).

Công nghị Phố Hiến 14-2-1670 : Trong chuyến thăm Giáo hội Đàng Ngoài, Đức cha Lambert de La Motte đã họp công nghị tại Phố Hiến. Trong tập sách “Thánh Giuse Trong Dân Chúa”, ông Phạm Đình Khiêm viết : “Giáo phận Đàng Ngoài họp công nghị lần thứ I tại Dinh Hiến tức Phố Hiến (Hưng Yên), dưới quyền chủ tọa của Đức cha Lambert de La Motte, với sự hiện diện  của cha chính Deydier, hai giáo sĩ thừa sai và 9 linh mục bản quốc đầu tiên, chưa kể một số thầy giảng. Sau khi thảo luận các vấn đề về việc điều hành địa phận, Công nghị đã chấp thuận 34 quyết định, mà quyết định kết thúc số 34 là tôn vinh Thánh Cả Giuse như sau : “Thánh Giuse vinh hiển được chọn làm Quan Thầy nước này, theo đúng quyết định đã có từ lâu. Phàm ai làm công việc gì hệ trọng trong Đạo đều phải cầu xin Người phù hộ” (Sđd, 2003, trang 368).

Thánh Giuse và Dòng Mến Thánh Giá : Trong tập sách “Dòng Mến Thánh Giá Những Năm Đầu”, cha Đỗ Quang Chính SJ viết như sau : “Đó là ngày lễ Tro năm 1670 tức là ngày 19-2-1670, (nhằm ngày 30 tháng giêng năm Cánh Tuất đời vua Lê Huyền Tông niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 và vào năm thứ 4 đời chúa Tây vương Trịnh Tạc cai trị Đàng Ngoài) như trong thư ĐC Lambert viết tại cửa khẩu Đàng Ngoài ngày 26-1-1670 gửi cho hai dì Phaola và Anê : “Sau khi các con tuyên khấn công khai vào ngày Lễ Tro, trước sự hiện diện của Cha, đáng lẽ như lòng mong ước, cha còn phải nói với các con đôi lời về bậc sống cao trọng và sự trọn lành mà các con nhắm tới, theo tiếng gọi của Thiên Chúa từ bi nhân hậu” (trang 61).

Luật Tiên Khởi Dòng Mến Thánh Giá Chúa Giêsu-Kitô, Điều 14 là : “Thánh Giuse được nhận làm bổn mạng của Tu hội này, hãy nhờ Ngưới chuyển cầu mà xin Thiên Chúa ban ơn cho Tu hội được thiết lập, tiến triển và hoàn thiện” (Đỗ Quang Chính, sđd, trang 101)

Năm 1678 : Ba Đức Giám mục :

  • Đức Giám mục Cotolendi, giáo phận Nam Kinh, Trung Hoa
  • Đức Giám mục Pallu, giáo phận Đàng Ngoài Việt Nam
  • Đức Giám mục Lambert de La Motte, giáo phận Đàng Trong Việt Nam

Thỉnh nguyện Đức Giáo hoàng chọn thánh Giuse làm quan thầy các giáo phận của các ngài.

Ngày 17-8-1678 Đức Giáo hoàng ban Tông Hiến “Thánh Vụ Tông đồ”. Tông hiến viết như sau : “Ngày 17-8-1678, theo thỉnh cầu của các vị Đại diện Tông tòa, Đức Giáo hoàng Innocentê XI tuyên nhận thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ Trung Hoa và Việt Nam” (Phạm Đình Khiêm, Sđd, trang 374).

Nhà thờ thánh Giuse Hà Nội : “Trong các nhà thờ đầu tiên lập tại kinh đô xứ Bắc, lịch sử còn ghi danh hiệu như : Nhà thờ Giáng sinh, Nhà thờ Phục sinh v.v… và cả nhà thờ Thánh Giuse, do chính người con tinh thần của cha Đắc Lộ là ông Raphaen Đắc Lộ (Raphael de Rhodes), một nhân sĩ xứ Bắc thời đó, xây dựng trong khuôn viên nhà mình (Launay, Histoire de la Mission du Tonkin, Documents Historiques, trang 65). Đấy là tiền thân của Nhà thờ Chánh tòa thánh Giuse Hà Nội ngày nay” (Phạm Đình Khiêm, Sđd, trang 167-168). Cũng nên nhớ : ông Raphael de Rhodes là cậu bé giúp cha Đắc Lộ nói tiếng Việt, quê Cây Trâm, Tam Kỳ.

Qua những biến cố lịch sử kể trên, thánh Giuse là bổn mạng của nước Trung Hoa và Việt Nam, vì thánh Giuse đã ra tay bảo trợ, nâng đỡ, như Thiên Chúa sai ông Mô-sê đến giải thoát dân Ít-ra-en khỏi kiếp sống nô lệ áp bức ở Ai Cập trong bài đọc 1, như Chúa Giê-su tha thứ tội lỗi nhân loại trong BTM, và như thánh Phao-lô dạy chúng ta đừng tự cao tự đại trong bài đọc 2.

Bài đọc 1 : Bđ1 kể : Ông Mô-sê đem đàn chiên lên núi Khô-rếp cho chúng ăn. Ông thấy lửa cháy trong bụi gai, nhưng bụi gai không cháy, Tới xem thì ông nghe tiếng Thiên Chúa nói với ông : “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tran trề sữa và mật” (Xh 3,7-8a).

Bài Tin Mừng : BTM kể 3 câu chuyện. Ba câu chuyện nói đến sự tha thứ của Thiên Chúa, lòng thương xót của Chúa.

  • Câu chuyện thứ I là những người Ga-li-lê bị quan Phi-la-tô giết chết. Dân chúng cho rằng vì họ tội lỗi, nhưng Chúa Giê-su dạy : “Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông sẽ chết hết như vậy” (Lc 13,3).
  • Câu chuyện thứ II là 18 người vì tội lỗi, nên bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Chúa Giê-su nói : “Không phải thế đâu, nhưng các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy” (Lc 13,5).
  • Cậu cuyện thứ III là cây vả không có trái. Ông chủ nói với người làm vườn : “Đã ba năm tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy, Vậy anh hãy chặt nó đi, để làm gì cho hại đất ! Nhưng người làm vườn đáp : “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái; nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.

Bài đọc 2 : Bđ2 là thư thánh Phao-lô viết cho giáo đoàn Cô-rin-tô : “Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,11-12).

Lạy thánh Giuse, xin giúp chúng con Mùa Chay thánh năm nay, chúng con nhận ra lòng thương xót của Chúa, sự tha thứ của Chúa, và giúp chúng con chừa cải tội lỗi.

Linh mục Giuse Nguyễn Trung Thành