Chúa Nhật III Mùa Chay Năm C


Thánh vịnh tuần III.

Giáo xứ Hoằng Phước Chầu Thánh Thể.

GIÁO HUẤN SỐ 17

Tông huấn HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ

CẢNH GIÁC VÀ TIN TƯỞNG

 

 “Dọc hành trình này, việc vun xới tất cả những gì là tốt đẹp, sự tiến triển trong đời sống thiêng liêng và sự lớn lên trong tình yêu sẽ là đối trọng tốt nhất chống lại ma quỉ. Những ai chọn giữ trung lập, những ai hài lòng với sự ít ỏi, những ai từ bỏ lý tưởng trao hiến chính mình cách quảng đại cho Chúa, họ sẽ không bao giờ đứng vững. Càng không thể đứng vững nếu người ta chủ bại, vì “nếu chúng ta bắt đầu với không chút tin tưởng, chúng ta đã thua nửa trận chiến rồi, và tự chôn vùi các khả năng của mình… Chiến thắng của Kitô giáo luôn luôn là một thập giá, nhưng thập giá ấy đồng thời là ngọn cờ chiến thắng, được mang vác với sự hiền dịu bất khuất chống lại những tấn công của ma quỉ”. (Tông huấn Hãy Vui mừng Hoan hỉ, số 163).

 

PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài Ðọc I: Xh 3, 1-8a. 13-15

“Ðấng hiện hữu sai tôi đến với anh em”.

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Môsê chăn chiên cho ông nhạc là Giêtrô, tư tế xứ Mađian. Ông lùa đoàn chiên qua sa mạc, đến núi Horeb là núi của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện ra với ông trong ngọn lửa cháy từ giữa bụi gai. Ông nhìn thấy bụi gai bốc lửa, nhưng không bị thiêu rụi. Môsê nói: “Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này, vì sao bụi gai không bị thiêu rụi”.

Thiên Chúa thấy ông lại xem, từ giữa bụi gai Người gọi ông: “Môsê! Môsê!” Ông thưa: “Dạ con đây!” Chúa nói: “Ngươi đừng đến gần đây. Hãy cởi dép ở chân ra, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh”. Chúa lại nói: “Ta là Thiên Chúa của Tổ phụ ngươi. Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp”. Môsê che mặt, vì không dám nhìn Thiên Chúa. Chúa nói: “Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than kẻ đốc công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng, nên Ta xuống cứu chúng thoát khỏi tay người Ai-cập và đưa ra khỏi đất ấy đến miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và mật”.

Môsê thưa với Thiên Chúa rằng: “Này con sẽ đến với con cái Israel và bảo họ: Thiên Chúa của tổ phụ anh em đã sai tôi đến với anh em. Nếu họ hỏi con: “Tên Người là gì?”, con sẽ nói sao với họ?” Thiên Chúa nói với Môsê: “Ta là Ðấng Tự Hữu”. Chúa nói: “Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: “Ðấng Tự Hữu sai tôi đến với anh em”.

Thiên Chúa lại nói với Môsê: “Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: “Thiên Chúa của tổ phụ anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp sai tôi đến với anh em”. Ðó là danh Ta cho đến muôn đời, đó là danh Ta phải ghi nhớ qua mọi thế hệ”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 6-7. 8 và 11

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).

Xướng: Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.

Xướng: Người đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng.

Xướng: Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel.

Xướng: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 10, 1-6. 10-12

“Ðời sống dân chúng đối với Môsê trong hoang địa được viết ra để răn bảo chúng ta”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết điều này, là tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây, đi ngang qua biển và tất cả nhờ Môsê mà được thanh tẩy, dưới áng mây và trong lòng biển; tất cả đã ăn cùng một thức ăn thiêng liêng, và uống cùng một thức uống thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng đi theo họ: tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Tuy nhiên, không phải phần đông trong họ đã sống đẹp lòng Chúa, vì họ đã bị gục ngã trong hoang địa.

Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như những người đó đã chiều theo. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đã làm, và đã vong mạng bởi tay một sứ thần huỷ diệt. Những việc đó đã xảy đến cho họ để làm gương, và đã được ghi chép để răn bảo chúng ta là những người đang sống trong thời đại cuối cùng. Thế nên, ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã.

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2

Này là lúc thuận tiện, này là ngày cứu độ.

Phúc Âm: Lc 13, 1-9

“Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”.

Ngài nói với họ dụ ngôn này: “Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: “Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!” Nhưng anh ta đáp rằng: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi”.

Ðó là lời Chúa.

SUY NIỆM I

THỜI GIAN CỦA NGƯỜI LÀM VƯỜN

Lm. Giuse Cao Tiến Luật, O.P.

Mọi người đều là tội nhân

Đối với Đức Giêsu, cái chết thảm khốc không phải là một sự trừng phạt của Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu sử dụng hai biến cố bi thảm xảy ra vào thời gian ấy để cho biết rằng tất cả mọi người đều là tội nhân, và những người lâm nạn trong các biến cố này không hẳn là những người tội lỗi hơn những người khác. Tất cả mọi người đều là tội nhân, nên tất cả cùng được kêu mời sám hối. Đó là câu kết luận Đức Giêsu muốn nêu lên với đám thính giả khi đưa ra lời đe dọa: họ sẽ bị tiêu diệt nếu họ không sám hối. Các tai nạn: những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết chết, những người bị tháp Silôa đè, chính là những lời Thiên Chúa cảnh cáo. Ai đang mắc nợ mà không thực thi lời kêu mời này, sẽ không được Vị Thẩm Phán đoái thương.

Lời đe dọa trên còn được nhắc lại trong dụ ngôn cây vả không sinh trái. Tuy nhiên, ở phần cuối bài Tin Mừng, tác giả cho biết Thiên Chúa nhân từ vẫn muốn kéo dài thời gian, cho dù cây vả dường như vẫn không sinh trái. Người ta còn có thể chờ đợi gì nơi một cây đã lâu lắm rồi không đơm bông kết trái? Đức Giêsu chính là người làm vườn làm liên tưởng đến Chúa Cha.

Như vậy, đoạn Tin Mừng hôm nay gồm ba ý tưởng nối kết với nhau: tất cả mọi người đều là tội nhân; tình trạng tội lỗi gợi lên một lời đe dọa, đồng thời một lời kêu gọi hãy mau sám hối; Thiên Chúa còn muốn kéo dài thời gian. Do đó, mỗi người đều được kêu mời hãy sám hối, tức là sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.

Điều chắc chắn nhất

Nhân loại dường như vẫn bị bao vây bởi những điều phi lý. Vẫn có những cái chết “lãng xẹt”, những tai nạn “vô duyên”. Tuy nhiên, vào thời Đức Giêsu cũng như các thời khác, các biến cố thời sự vẫn là những cửa ngõ dẫn đến đức tin. Liệu rằng người ta có thể khám phá ra điều này trong các biến cố?

Tổng trấn Philatô sát hại những người Galilê đang khi họ tiến dâng của lễ. Đáng lý ra, họ phải được Thiên Chúa che chở? Tháp Silôa bỗng dưng sập xuống và đè chết nhiều người. Thật là một tai nạn vô duyên đối với những người tình cờ đi ngang qua đó. Họ chết mà chẳng có lý do rõ ràng!

Vậy, cái chết dường như chẳng có lý do. Và không ai có thể thoát khỏi điều vô lý ấy. Về phần mình, Đức Giêsu không tìm cách giải thích sự kiện, cũng không muốn biện minh cho Thiên Chúa: “Nếu chúng tôi có mặt ở đó, sự việc đã không xảy ra…”

Người chỉ nói: “Nếu các ông không sám hối, các ông cũng sẽ chết như vậy”. Thế ra cái chết vẫn có thể đến bất thình lình, và chẳng bao giờ đến cùng một cách. Câu nói của Đức Giêsu quả là khác thường, bởi vì biết bao người sau khi sám hối, biết bao vị thánh, đã chết cách “thê thảm” như bao người khác. Nhìn bề ngoài, sự phi lý trong trần gian là một thất bại nào đó, nhưng phải chăng tự nó cuộc sống lại không có ý nghĩa rồi sao?

Nhanh chân lên

Mỗi người chúng ta giống như cây vả đã bao năm không sinh trái, đã tỏ ra nhiều bằng chứng về sự cằn cỗi của mình. Còn Thiên Chúa tựa như người làm vườn, vẫn kiên nhẫn đợi chờ và muốn cho cây vả có thêm thời giờ.

Năm hồng ân. Đó là sứ mạng của Đức Giêsu khi đến trần gian. Đó là thời của Hội Thánh trước khi Chúa trở lại. Đó là thời của chúng ta được nhấn mạnh với Mùa Chay.

Lòng kiên nhẫn lạ lùng của Thiên Chúa được biểu lộ qua Đức Giêsu, lòng kiên nhẫn vượt quá mọi lý lẽ: điều ấy thôi thúc chúng ta phải nhanh chân lên. Thời gian để sám hối vẫn còn, chưa phải là trễ. Chúng ta có thể bắt đầu ngay hôm nay?

Ôi tình thương vĩnh cửu, tình thương phủ lấp mọi lỗi lầm của thụ tạo,

tình thương phát xuất từ thần tính là Cha Vĩnh Cửu.

Chúa dùng quyền năng mà điều khiển vũ trụ:

chúng con đã được dựng nên nhờ tình thương của Chúa

và chúng con được tái tạo cũng nhờ tình thương.

Tình thương Chúa gìn giữ chúng con,

tình thương Chúa là sự sống,

tình thương Chúa trao ban ánh sáng

giúp chúng con nhận ra

lòng nhân từ Chúa dành cho mọi thụ tạo,

cho cả người công chính lẫn tội nhân.

(theo thánh Catarina Sienna)

SUY NIỆM II

KHÔNG SÁM HỐI SẼ BỊ HUỶ DIỆT

jn.nvh

Anh chị em thân mến,Chúng ta vừa nghe đoạn Tin Mừng theo thánh Luca, trong đó Chúa Giêsu nhắc đến hai biến cố đau thương: vụ quan Philatô giết một số người Galilê đang dâng lễ và vụ tháp Silôe đổ xuống làm chết mười tám người. Những người chứng kiến có thể đã nghĩ rằng đó là hình phạt của Thiên Chúa dành cho những kẻ tội lỗi. Nhưng Chúa Giêsu khẳng định: “Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy” (Lc 13,5).

Thái độ của người Do Thái thời Chúa Giêsu không xa lạ với chúng ta. Khi chứng kiến một ai đó gặp hoạn nạn, chúng ta có xu hướng tự hỏi: “Họ đã làm gì sai để phải chịu như vậy?” Nhưng Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta: đừng vội xét đoán người khác, vì chính chúng ta cũng cần sám hối.

Luân lý Kitô giáo nhấn mạnh rằng tội lỗi không chỉ là vi phạm một điều luật, mà còn là sự rạn nứt trong mối quan hệ với Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Tôma Aquinô định nghĩa tội là “một hành vi sai lạc, trái với trật tự lý trí và luật vĩnh cửu của Thiên Chúa” (Summa Theologiae, I-II, q.71, a.6). Vì thế, khi xét đoán người khác mà quên đi sự bất toàn của chính mình, chúng ta đã rơi vào sự tự mãn nguy hiểm.

Sách Xuất Hành hôm nay thuật lại câu chuyện Thiên Chúa hiện ra với Môsê trong bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi. Thiên Chúa mạc khải danh Ngài: “Ta là Đấng Tự Hữu” (Xh 3,14), nghĩa là Thiên Chúa hằng sống, trung thành và luôn quan tâm đến nỗi khổ của dân Ngài. Nếu Thiên Chúa đến giải thoát dân Israel khỏi Ai Cập, thì Người cũng đang mời gọi chúng ta thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi.

Dụ ngôn cây vả không sinh trái nhắc chúng ta: Thiên Chúa kiên nhẫn, nhưng sự kiên nhẫn của Ngài không kéo dài vô tận. Người chủ vườn mong chờ cây vả kết trái, nhưng suốt ba năm, cây vẫn không sinh hoa lợi. Ông chủ muốn chặt đi, nhưng người làm vườn xin thêm một năm để chăm sóc. Nếu sau đó vẫn không sinh trái, cây sẽ bị chặt bỏ.

Quả thật, đời sống Kitô hữu không chỉ là “sống tốt”, mà còn phải “sinh hoa kết trái” trong đức tin. Thiên Chúa kiên nhẫn, nhưng chúng ta không thể trì hoãn mãi việc sám hối và thay đổi đời sống. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã” (1Cr 10,12). Cũng như dân Israel đã được cứu khỏi Ai Cập nhưng vẫn ngã quỵ trong sa mạc vì thiếu lòng tin, chúng ta cũng có thể lầm tưởng rằng mình đang sống tốt, nhưng thực chất lại không sinh hoa kết quả nào cho Thiên Chúa.

Trong luân lý, việc hoán cải không chỉ là tránh xa tội lỗi, mà còn là một hành trình hướng đến sự thánh thiện. Thánh Gioan Phaolô II trong Reconciliatio et Paenitentia (số 4) dạy: “Hoán cải đích thực không phải là sự thay đổi bên ngoài, mà là một cuộc biến đổi nội tâm, một sự trở về với Thiên Chúa bằng cả trái tim.” Nếu chỉ tránh tội mà không tiến bước trong đức ái, chúng ta chưa thực sự hoán cải.

* Sám hối không chỉ là cảm thấy hối tiếc vì những lỗi lầm, mà còn là một sự thay đổi tận căn, một cuộc hoán cải từ trong tâm hồn. Giáo lý Công giáo dạy: sám hối đích thực có ba yếu tố: nhận biết tội lỗi, đau buồn vì tội lỗi và quyết tâm thay đổi (GLCG số 1431). Chúng ta có thể thực hiện sám hối qua ba cách:

  • Sám hối trong cầu nguyện: Nhìn lại đời sống mình dưới ánh sáng Lời Chúa, nhận ra những thiếu sót, lỗi lầm và xin Chúa tha thứ.
  • Sám hối qua Bí tích Hòa Giải: Lãnh nhận bí tích này không chỉ là được tha thứ, mà còn là cơ hội để canh tân đời sống.
  • Sám hối trong việc bác ái: Sám hối không chỉ dừng lại ở việc tránh điều xấu, mà còn phải làm điều tốt. Một trong những dấu chỉ của sự hoán cải là lòng quảng đại với tha nhân.

Thánh Augustinô nói rằng: “Ai tự xét mình thì không bị xét xử.” Sự hoán cải đích thực đòi hỏi chúng ta không chỉ thay đổi hành vi mà còn thay đổi cả tâm hồn. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo một cách hình thức mà không để Lời Chúa biến đổi mình, thì đời sống đức tin vẫn còn cằn cỗi.

Sám hối không thể tách rời khỏi trách nhiệm luân lý của mỗi người. Một khi nhận ra lỗi lầm, chúng ta có bổn phận khắc phục hậu quả của nó. Luân lý Kitô giáo không chỉ dạy chúng ta tránh xa tội lỗi cá nhân mà còn mời gọi chúng ta dấn thân để sửa chữa những bất công trong xã hội. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở trong Evangelii Gaudium (số 188): “Sám hối đích thực bao gồm cả sự hoán cải về mặt xã hội, một sự thay đổi trong cách chúng ta đối xử với những người xung quanh.”

Như thế, sám hối không chỉ là một việc làm cá nhân, mà còn là một lời mời gọi để chúng ta góp phần xây dựng một xã hội công bằng, yêu thương và bác ái hơn.

Anh chị em thân mến, Mùa Chay là thời gian thuận tiện để trở về với Chúa. Đừng trì hoãn việc sám hối, vì mỗi ngày sống là một cơ hội quý giá Chúa ban để chúng ta thay đổi. Như cây vả được thêm một năm để sinh trái, chúng ta cũng đang được Chúa kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng đừng quên: sự kiên nhẫn của Chúa không kéo dài vô tận. Hãy sám hối ngay hôm nay, vì “nay là thời thuận tiện, nay là ngày cứu độ” (2Cr 6,2).

Xin Chúa ban ơn giúp chúng ta can đảm thay đổi đời sống, để mỗi ngày sống của chúng ta là một bước tiến đến gần Chúa hơn. Amen.

SUY NIỆM III

CÂY VẢ ĐỜI TA

Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả không ra trái? Vậy dụ ngôn là gì? Tại sao Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả mà không phải là cây nho? Qua dụ ngôn cây vả Chúa Giêsu dạy ta điều gì? Trước hết, Theo từ điển Bách Khoa toàn thư Wikipedia định nghĩa rằng: “Dụ ngôn là một thể loại văn học dưới hình thức những hình ảnh rất gần gũi trong đời sống con làm cốt truyện bằng văn xuôi hoặc thơ nhằm mục đích minh họa cho bài học nhân văn hay một triết lý sống. Như vậy, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả, một loại cây rất gần gũi với người Do thái. Tại sao Chúa Giêsu dùng cây vả mà không phải cây nho. Bởi vì Chúa Giêsu biết trong Thánh Kinh Cựu ước các Ngôn sứ đã nói cây vả. Chẳng hạn, Ngôn sứ Gioen nói: Vườn nho của Ta, chúng biến nên chốn hoang tàn, cây vả của Ta, chúng làm thành đống củi vụn. Chúng tước sạch vỏ, hạ đổ thân cây, bóc cành trắng hếu” (Ge 1,7). Ngôn sứ Gioen nói cây vả ở đây tượng trưng cho Dân Ít-ra-en bị bách hại, lưu đày. Còn Ngôn sứ Giêrêmia nói: “Ta quyết sẽ thu về không để trái nào trên cây nho, không để trái nào trên cây vả, cả lá cây cũng phải héo tàn, vì Ta sẽ trao chúng cho những kẻ qua đường” (Gr 8,13). Ngôn sứ Giêrêmia nói cây vả tượng trưng cho Dân Ít-ra-en không sinh trái, Thiên Chúa sẽ thu về. Từ những hình ảnh Cựu Ước này, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả tượng trưng Dân được chọn, là những người theo Chúa, các Tông đồ và chúng ta. Trong dụ ngôn cây vả không trái, Chúa Giêsu chủ vườn. Bác làm vườn can thiệp xin cho cây vả yêu quí được gia hạn ân xá sau cùng. Ẩn dụ chỉ có từng ấy. Còn những chi tiết khác của dụ ngôn phải được giải thích rõ ràng trong vườn nho, người ta trồng cây vả, sau ba năm chăm sóc, phân bón, tưới hẳn hoi đáng lẽ ra nó có trái đằng này không có trái nào. Ông chủ vườn bảo chặt đi, người làm vườn xin cho nó sống thêm 1 năm nữa biết đâu nó ra trái.

Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng Thiên Chúa chờ đợi nơi Dân Ngài những hoa quả của lòng thống hối, ăn năn và hoa quả của lòng bác ái. Họ phải khẩn trương lợi dụng những lời mời gọi sau cùng mà Chúa Giêsu, Đấng trung gian giàu lòng thương xót gởi đến cho họ để họ phải ăn năn sám hối và thi hành bác ái kẻo không thì Dân Ít-ra-en sẽ chịu số phận như cây vả không sinh hoa trái. Dụ ngôn trực tiếp nhắm đến dân Do thái thời Chúa Giêsu. Nhưng cũng có thể áp dụng cho các tội nhân bỏ qua những dịp ăn năn sám hối và làm việc bác ái. Xét theo khía cạnh này, dụ ngôn thật là một bài học luôn luôn thích thời cho chúng ta hôm nay.

Ông làm vườn luôn hy vọng rằng cây vả của ông, dù vẫn chưa ra trái, sẽ có ngày sinh hoa kết quả. Ông thuyết phục người chủ vườn hãy hoãn lại quyết định đốn cái cây ăn hại đất một cách vô ích ấy; và ông đã nhận được một án treo cho cây vả: “Xin hãy để nó sống thêm năm nay nữa… Biết đâu nó sẽ ra trái? nếu không, lúc ấy ông hãy đốn nó đi”. Thiên Chúa là như thế. Tha thiết mong người ta hoán cải đừng chậm trễ và hãy đem tình yêu đáp lại tình yêu đi bước trước của Người. Thiên Chúa nhẫn nại vô biên đối với người tội lỗi. Người chấp thuận cho họ một sự trì hoãn ân huệ. Người không tuyệt vọng vì bất kỳ ai dù người đó tội lỗi mấy đi nữa như Thánh vương Đavít đã kêu lên rằng: “Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ, con kêu lên cùng Chúa, và Ngài đã cho con bình phục. Lạy CHÚA, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng CHÚA, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời” (Tv 30, 3-6).

Mọi tín hữu đều giống như cây ăn trái Thiên Chúa đã trồng nơi vườn Nước Thiên Chúa. Từ khi lãnh bí tích rửa tội, chúng ta đã không ngừng được chủ vườn Nước Thiên Chúa săn sóc: được giáo dục theo Kitô giáo, được vô số ân sủng ban sức mạnh và ánh sáng qua các Bí Tích, được sống thân mật với Thiên Chúa, được biết bao nhiêu ân huệ, được Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy, hướng dẫn… Và vì đó, phải coi chừng kẻo chúng ta trở thành những cây vả không sinh hoa trái như cây vả của dụ ngôn: những ân huệ của Thiên Chúa ở trong chúng ta cần phải sinh hoa quả là lòng yêu mến biết ơn Thiên Chúa và tôn thờ Thiên Chúa, đặc biệt là những  hoa quả của Chúa Thánh Thần: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gal 5,22-23). Nếu cho đến lúc này chúng ta vẫn là những cây vả không sinh những hoa trái trên thì cũng còn thì giờ để hoán cải và làm phát sinh kết quả với thời hạn mà Chúa còn dành cho chúng ta trước khi đưa chúng ta ra trình diện trước mặt Ngài. Mùa chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta: sám hối trở về với Chúa, siêng năng cầu nguyện lãnh nhận bí tích hòa giải, thực thi bác ái. Nếu chúng ta biết lợi dụng thời gian này cách khôn ngoan thì Thiên Chúa sẽ yêu thương đón nhận và ban cho chúng ta ơn của Ngài để chúng ta sống và sống dồi dào sinh hoa thơm trái ngọt làm sáng Danh Thiên Chúa Hằng Hữu và mưu ích cho tha nhân và các linh hồn. Amen.

GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

Nguồn: giaophancantho.org

  1. VUI VÌ KHI ĐƯỢC THA THỨ

Trong hồi ký của mình, Mahatma Gandhi, người cha tinh thần của dân tộc Ấn Độ, khiêm tốn và thẳng thắn thừa nhận rằng, khi mới mười lăm tuổi, ông đã lấy trộm một cục vàng nhỏ của anh trai mình. Vài ngày sau, anh cảm thấy rất tội lỗi và quyết định tẩy sạch tâm hồn bằng cách thú nhận với cha mình. Vì vậy, anh đã lấy một tờ giấy, viết ra lỗi của mình, thành khẩn xin cha tha thứ và hứa sẽ không bao giờ tái phạm. Mang bức thư đó đến phòng ngủ của cha mình, Gandhi trẻ thấy ông ốm trên giường. Anh ta rất rụt rè đưa tờ giấy nhỏ cho cha mình mà không nói lời nào. Cha anh ngồi dậy trên giường và bắt đầu đọc mẩu giấy. Khi đọc nó, Gandhi cha đã vô cùng xúc động trước sự trung thực, chân thành và dũng cảm của cậu con trai mình đến nỗi nước mắt ông bắt đầu trào ra. Điều này khiến người con trai cảm động đến nỗi anh cũng bật khóc. Một cách bản năng, cả hai cha con vòng tay qua nhau và không nói lời nào cùng nhau chia sẻ sự cảm kích và niềm vui của họ. Trải nghiệm đáng chú ý này đã tác động đến Gandhi đến nỗi nhiều năm sau đó, anh sẽ nói: “Chỉ người đã trải qua tình yêu tha thứ này mới có thể biết nó là gì.”

* Đây chính là những gì đã xảy ra khi đứa con hoang đàng sám hối trở về nhà. Lòng nhân từ tha thứ của Thiên Chúa sẽ dành cho tất cả những ai kiên quyết đổi mới tâm hồn, đặc biệt là trong Mùa Chay này. (Linh mục James Valladares trong Your Words O Lord are Spirit and They Are Life; được cha Botelho trích dẫn).

  1. THÊM MỘT NĂM NỮA

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy về cách ân sủng hoạt động, diễn ra chậm nhưng chắc chắn. Chúa giảng một dụ ngôn về cây vả tưởng chừng như không sinh quả, nhưng được tạo thêm sự chăm sóc và một cơ hội khác để sinh hoa kết trái. Câu chuyện dụ ngôn là hư cấu. Tuy nhiên, việc cha Turquetil biến đổi người Eskimô không phải là hư cấu, mà là sự thật và là một minh họa tuyệt vời hơn nữa về hoạt động của ân sủng. Cha Arsene Turquetil sinh năm 1876 gần Lisieux, Pháp. Ngài gia nhập Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, một dòng truyền giáo; và được thụ phong linh mục vào năm 1899. Sau đó ngài được phái đến vùng cực đông bắc của Canada để làm việc giữa những người bản xứ. Sau mười hai năm sống với người da đỏ, ngài được cử đi tiên phong trong một sứ mệnh sống giữa những người Eskimô quanh Chesterfield Inlet, ngoài khơi phía trên Vịnh Hudson. Cha Arsene đã nỗ lực suốt 5 năm dài để thu phục những người ngoại đạo này đến với đức tin. Tuy nhiên, họ tụ tập lại chỉ để cười nhạo sứ điệp của ngài và chế nhạo Thánh lễ ngài cử hành. Bất chấp những thất bại liên tục, cha Turquetil không nỡ bỏ cuộc. Ngài xin với bề trên: “Cho con thêm một năm nữa”. Vị giám mục nói: “Được rồi,  nếu cha kiên trì, thì một năm nữa cũng được.” Đó là vào khoảng năm 1917. Khoảng thời gian đó, nhà truyền giáo nhận được một lá thư từ một người bạn ở quê nhà kể về việc Sơ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một tu sĩ Lisieux, từ khi qua đời vào năm 1897, đã làm nhiều phép lạ như thế nào. Cha Arsene quyết định nhờ sơ giúp đỡ người Eskimô. Bạn của cha ta đã gửi cho cha một gói bụi từ ngôi mộ của Sơ Têrêsa. Vì vậy, lần đó khi những người Eskimô tụ tập để nghe ngài, ngài đã bảo những người anh em giáo dân của mình bí mật đi vòng quanh phía sau những người bản địa và thả một chút bụi lên đầu mỗi người trong họ. Nó đã tác động. Vị linh mục đã có thể rửa tội cho một em bé ngay sau đó. Tiếp theo, vị tộc trưởng người Eskimô đột nhiên đến và nói: “Tôi muốn trở thành một Kitô hữu.” Rồi những người còn lại đã noi gương người lãnh đạo của họ. Đó là một phép lạ thực sự của ân sủng, và nó cũng giúp đạt được việc phong thánh cho thánh Têrêsa thành Lisieux vào năm 1925. Khi cha Turquetil được phong làm giám mục người Eskimô của mình vào năm 1931, và nghỉ hưu vào năm 1943, chỉ còn có hai người ngoại đạo trong số những người Eskimô của Chesterfield Inlet! (Cha Robert F. McNamara).

  1. TÔI CÓ TỘI

Có một câu chuyện kể về việc vua Frederick II, một vị vua của nước Phổ ở thế kỷ thứ mười tám, đã đến thăm một nhà tù ở Berlin. Ông gặp hết tù nhân này sang tù nhân khác, và mỗi người trong số họ đều cố gắng chứng minh rằng họ đã bị giam cầm một cách bất công như thế nào. Tất cả đều tuyên bố mình vô tội, chỉ trừ một người. Tù nhân này đang ngồi yên lặng trong một góc, trong khi tất cả những người còn lại phản đối sự vô tội của họ. Thấy anh ta ngồi đó mà không để ý đến mọi chuyện khác đang diễn ra, vua bước đến gần anh ta và nói: “Con trai, tại sao con lại ở đây?” Anh ta nói: “Cướp có vũ trang, thưa ngài.” Nhà vua hỏi: “Anh có tội phải không?” Anh ấy nói: “Thưa đức vua, tôi có tội, và tôi xứng đáng có mặt ở đây.” Sau đó, nhà vua ra lệnh cho cai ngục và nói: “Hãy thả người tội lỗi này ra, ta không muốn anh ta thay đổi tất cả những người vô tội!”

  1. SÁM HỐI

The Mission (Truyền giáo) là một bộ phim năm 1986 kể về câu chuyện của một linh mục Dòng Tên người Tây Ban Nha đã đi vào rừng rậm Nam Mỹ để cải đạo những người bản địa làm nô lệ, những người đã phải chịu sự tàn ác của thực dân Bồ Đào Nha. Một trong những cảnh đáng chú ý nhất trong bộ phim này, đó là khi thuyền trưởng Mendoza, người đã giết anh mình trong cơn nóng giận, được nhìn thấy đang leo núi với chiếc ba lô nặng trĩu trên vai, như một hành động đền tội cho tội lỗi quá khứ của mình. Chiếc ba lô, nơi chứa tất cả vũ khí của cuộc sống trước đây là một người buôn bán nô lệ, nặng đến mức anh ta không thể leo cao hơn trừ khi anh ta từ bỏ nó. Anh cảm thấy nhẹ nhõm khi một trong những người bản địa, người mà trước đây anh ta đã bắt làm nô lệ, đến bên cạnh anh ta. Người này đã tha thứ cho thuyền trưởng bằng cách cắt dây ba lô của ông với một con dao sắc, và như vậy, anh ta đã cứu mạng Mendoza thay vì coi đó là sự báo thù của mình.

* Chiếc ba lô tượng trưng cho tội lỗi. Chúng ta không thể mang theo “gói” tội lỗi bên mình. Thiên Chúa có thể dùng những tai ương và bi kịch trong cuộc sống như những lời cảnh báo yêu thương để thức tỉnh con cái của Ngài.

  1. THẢM HỌA HẠT NHÂN

Thảm họa Chernobyl là một vụ tai nạn hạt nhân xảy ra vào ngày 26 tháng 4 năm 1986 tại nhà máy hạt nhân Chernobyl ở Pripyat, miền bắc nước Ukraina. Đây là thảm họa nhà máy điện hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử. Nó dẫn đến sự phát tán phóng xạ nghiêm trọng sau một vụ nổ lớn phá hủy lò phản ứng. Hầu hết các trường hợp tử vong do tai nạn là do nhiễm độc phóng xạ. Những đám mây trôi qua nhiều vùng rộng lớn ở phía tây Liên Xô, Đông Âu, Tây Âu và Bắc Âu với một số trận mưa hạt nhân rơi xuống tận nước Ireland. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), cho rằng 56 trường hợp tử vong trực tiếp (47 công nhân bị tai nạn và 9 trẻ em bị ung thư tuyến giáp), và ước tính rằng có thể có thêm 4000 ca tử vong do ung thư trong số khoảng 600000 người bị phơi nhiễm nặng nhất. (Wikipedia).

* Trích dẫn hai sự việc bi thảm trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyên dân Do Thái sám hối tội lỗi và cải cách đời sống.

  1. MỘT LỜI KHUYÊN

 “Hãy về nhà và yêu thương vợ/chồng và các con của bạn.” Mẹ Têrêsa đã từng được một phóng viên hỏi xem mọi người có thể làm gì để xây dựng Hòa bình Thế giới và cải thiện điều kiện sống của thế giới chúng ta. Không chút do dự, bà nói: “Hãy về nhà và yêu thương vợ/chồng và các con của bạn.”

* Mẹ Têrêsa rất được thế giới ngưỡng mộ và kính trọng vì Mẹ rất hay tha thứ. Sự hờn giận không có chỗ đứng trong tâm hồn và tinh thần của bà. “Ăn chay” khỏi sự hờn giận và bạn sẽ loại bỏ được một nửa số thuốc bạn đang dùng!

  1. TỘI LỖI VÀ TAI HỌA

Các mục tử đôi khi gặp phải những người phải chịu bi kịch mà họ nghĩ là do tình trạng tội lỗi của chính họ gây ra. Ở đây chúng ta giữ cân bằng hai ý kiến ​​trái ngược nhau: Một mặt, bi kịch đôi khi xảy ra một cách ngẫu nhiên, như trường hợp của những người Galilê và mười tám người Giêrusalem. Trong những trường hợp như vậy, nó không liên quan gì đến tình trạng tội lỗi. Ví dụ, cơn lốc xoáy phá hủy một hộp đêm cũng phá hủy một nhà thờ: nó giết chết người say rượu và cả giáo lý viên. Tuy nhiên, sự sám hối giúp chúng ta luôn sẵn sàng khi gặp phải tai họa không thể tránh khỏi. Nó giúp chúng ta sống một cách mạnh mẽ khi đối mặt với bi kịch, và nó cũng chuẩn bị cho chúng ta trước cái chết. Mặt khác, tội lỗi đôi khi dẫn đến tai nạn. Ví dụ, người lái xe say rượu giết người vô tội. Người chồng bạo hành gây thương tích cho vợ, con của họ. Không phải tất cả bi kịch đều là kết quả của tội lỗi, nhưng một số là như vậy. Có lẽ cách tốt nhất để hình dung điều này là một vòng tròn nhỏ bên trong một vòng tròn lớn. Vòng tròn lớn là những bi kịch bất ngờ. Vòng tròn nhỏ là bi kịch do tội lỗi của chúng ta gây ra.

* Chúng ta không thể tránh khỏi các bi kịch ngẫu nhiên – thứ nằm ngoài vòng tròn nhỏ – nhưng Chúa Kitô kêu gọi chúng ta sám hối tội lỗi, để chúng ta có thể tránh được bi kịch tự đặt ra cho mình trong vòng tròn nhỏ. (sermonwriter.com).

  1. CẢM NHẬN ƠN THA THỨ

Câu chuyện kể về một giám đốc trẻ điều hành một công ty, tên là Thanh, người đã trượt ngã trước sự cám dỗ và bị phát hiện là phạm tội tham ô. Anh ta được gọi vào văn phòng của chủ tịch công ty. Anh sợ điều tồi tệ nhất xảy ra. Ông Dũng hỏi: “Thanh, bạn đã làm điều đó?” Thanh cúi đầu xấu hổ và lẩm bẩm: “Vâng, thưa ông.” Ông Dũng tiếp tục: “Bạn đã thực hiện một quyết định tồi. Tôi biết rằng bạn nhận ra điều đó. Bạn là người thứ hai trong phòng này đã lựa chọn sai. Ba mươi năm trước, tôi đã làm điều tương tự như bạn đã làm, và một người đàn ông rất tốt bụng đã cho tôi một cơ hội khác. Tôi sẽ trao cho bạn sự cảm thông và cơ hội mà tôi đã nhận được vào ngày hôm đó. Bây giờ bắt đầu làm việc!” Nghe đến đây, Thanh choáng váng. Lặng lẽ, anh rời văn phòng với lòng biết ơn và cảm giác nhẹ nhõm khó quên.

* Một cách tương tự, Thiên Chúa ban cho chúng ta những gì chúng ta không xứng đáng. Bất cứ khi nào chúng ta phạm tội, Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta và cho chúng ta một cơ hội khác, vì “Chúa là Đấng yêu thương, từ bi, và nhân hậu.”

Linh mục Giuse Ngô Quang Trung sưu tầm