Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm C


CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY.

Thánh vịnh tuần IV.

Giáo xứ An Hải Chầu Thánh Thể.

GIÁO HUẤN SỐ 18

Tông huấn HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ

SỰ HƯ HỎNG TÂM LINH

 “Con đường thánh thiện là nguồn của bình an và niềm vui mà Chúa Thánh Thần ban tặng chúng ta. Đồng thời, nó đòi hỏi chúng ta giữ “ngọn đèn cháy sáng” (Lc 12,35) và tỉnh thức. “Hãy tránh xa mọi điều xấu, dưới bất cứ hình thức nào” (1Tx 5,22). “Hãy tỉnh thức” (Mt 24,42; Mc 13,35). “Chúng ta đừng mê ngủ” (1Tx 5,6). Những ai nghĩ rằng mình không phạm tội nặng nề chống lại luật Thiên Chúa thì có thể rơi vào một tình trạng u mê. Vì họ không nhận ra điều gì hệ trọng để ăn năn, họ không nhận ra rằng đời sống thiêng liêng của mình đang dần trở nên nguội lạnh. Cuối cùng họ yếu nhược và hư hỏng”. (Tông huấn Hãy Vui mừng Hoan hỉ, số 164).

 

 PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

(Gs 5,9a.10-12; 2Cr 5,17-21; Lc 15,1-3.11-32 )

Bài Ðọc I: Gs 5, 9a. 10-12

“Dân Chúa tiến vào đất Chúa hứa và mừng Lễ Vượt Qua”.

Trích sách Giosuê.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Giosuê rằng: “Hôm nay, Ta đã cất sự dơ nhớp của Ai-cập khỏi các ngươi!” Con cái Israel tạm trú tại Galgali và mừng Lễ Vượt Qua vào ban chiều ngày mười bốn trong tháng, trên cánh đồng Giêricô. Ngày hôm sau Lễ Vượt Qua, họ ăn các thức ăn địa phương, bánh không men và lúa mạch gặt năm ấy. Từ khi họ ăn các thức ăn địa phương, thì không có manna nữa. Và con cái Israel không còn ăn manna nữa, nhưng họ ăn thổ sản năm đó của xứ Canaan.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).

Xướng: Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.

Xướng: Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ.

Xướng: Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.

 

Bài Ðọc II: 2 Cr 5, 17-21

“Thiên Chúa đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với mình”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu ai ở trong Ðức Kitô, thì người đó sẽ là một thụ tạo mới, những gì là cũ đã qua đi: này đây tất cả mọi sự đã trở thành mới. Vì mọi sự bởi Thiên Chúa, Ðấng đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với mình, và trao phó cho chúng tôi chức vụ giao hoà. Thật vậy, Thiên Chúa là Ðấng giao hoà thế gian với chính mình Người trong Ðức Kitô, nên không kể chi đến tội lỗi của loài người, và đặt lên môi miệng chúng tôi lời giao hoà. Nên chúng tôi là sứ giả thay mặt Ðức Kitô, như chính Chúa dùng chúng tôi mà khuyên bảo. Vì Ðức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy giao hoà với Thiên Chúa. Ðấng không hề biết tội, thì Thiên Chúa làm nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên sự công chính của Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Lc 15, 18

Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha.

Phúc Âm: Lc 15, 1-3. 11-32

“Em con đã chết nay sống lại”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Người kia có hai con trai. Ðứa em thưa với cha rằng: “Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con”. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói. Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu… Người con trai lúc đó thưa rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha bảo đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy”. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.

“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: “Ðó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về mạnh khoẻ”. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”. Nhưng người cha bảo: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.

Ðó là lời Chúa.

 SUY NIỆM I

TÂM SỰ BỐ GIÀ

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật

Với người con thứ

Con thân mến, vậy là con đã trở về, niềm mong đợi của cha đã thành. Con biết đấy, cha mong đợi ngày này từ bao năm nay. Kể từ ngày con cất bước ra đi, cha vẫn chờ con về. Chiều chiều, cha vẫn tựa cửa, ngong ngóng tìm bóng người thân quen và chiều nay cha đã gặp được bóng dáng đó.

Khi con đòi chia gia tài, thực sự cha không muốn. Giữa cha và con đâu có gì là xung khắc. Nhưng chỉ vì đam mê của tuổi trẻ trước ngưỡng cửa cuộc đời, con muốn vượt thoát, muốn sống ngoài vòng kềm tỏa; vì khao khát tự do, háo hức muốn có kinh nghiệm, muốn biết cái mới lạ, và do chưa có bản lĩnh, do tính hung hăng thích phiêu lưu mạo hiểm.

Con còn nhớ chứ, cha đã ngăn cản con hết lời, để con bỏ ý tưởng rồ dại ấy đi, để con hiểu rằng tình thương yêu của cha đối với con còn lớn hơn, còn quý báu hơn mọi thứ của cải, mọi thứ kinh nghiệm.

Thế nhưng, trước thái độ khăng khăng quyết liệt của con, vì con cứ nài nỉ mãi, và vì tôn trọng quyền tự do của con – điều mà xưa nay cha vẫn thực hiện – cha đã nhượng bộ. Cha đã làm một điều mà lòng không vui chút nào. Cha đã làm một điều mà cha thấy trước rằng sẽ không tốt cho con. Biết làm sao được! Con ao ước được tự do mà cha lại tôn trọng tự do!

Và thế là con ra đi.

Cha biết rằng với số tiền lớn trong tay, với tính khí ngang tàng, muốn bay nhảy, muốn tự do, muốn xả láng, con khó lòng tạo nên một cơ nghiệp. Con sẽ tiêu xài hết số tiền ấy và chẳng mấy chốc trở thành trắng tay. Nói quá, cha mong cho điều ấy xảy ra, để con hiểu rằng thế nào là tự do. Người ta phải kìm hãm những đam mê của mình, và độc lập không hẳn phải là tự mình quyết định mọi việc.

Khỏi cần nói cha cũng biết con đã tiêu tán số tiền ấy vào những đâu. Con đã qua những đêm thức trắng, rượu bia đầy bàn; con đã du lịch khắp đó đây, đã ở những nơi sang trọng nhất. Con đã trải qua những phút hả hê, bạn bè vây quanh, ai cũng nồng nhiệt đón rước. Và lúc đó con ôm ảo tưởng rằng tiền bạc là tất cả. Có tiền là mua được bạn bè, có tiền là tạo nên được niềm vui, và có tiền là mình đã thành đạt. Con đâu nghĩ rằng, ngay cả khi đầy tiền bạc, con người cũng chẳng tạo được thành đạt, vì họ đã đánh mất nguồn gốc của mình, đó là tình thương.

Và đến một ngày, Con đã trải qua những thời gian cùng cực, những ngày tủi nhục nhất, con đã chẳng còn chút phẩm giá nào của một con người, đã phải sống trong khổ sở, nhục nhã. Và may cho con, chính những lúc đó, con còn nhớ được rằng ở nhà cha, những người đầy tớ còn sung sướng hơn. Khi còn ở bên cha, con không hiểu được thế nào là mái nhà, thế nào là tình thương. Khi ở cạnh cha, con tưởng mình không có gì cả, mặc dù con đang có điều lớn nhất. Nhưng khi bị rơi xuống tận cùng vực thẳm, con mới hiểu thấm thía thế nào là mái nhà, thế nào là tình cha. May thay, trong con vẫn còn một chút ý thức!

Hôm nay con trở về. Con về vì chẳng có chỗ nào đón nhận con, chẳng còn chỗ nào nuôi con nữa, chẳng còn người bạn nào tiếp đón con. Không sao cả, con trở về là cha mừng. Cha đã đợi chờ quá lâu.

Con thấy đó, cha không cần lời thú lỗi của con, cha đã tha thứ cho con rồi. Con hãy nhận lại tư cách là con. Hãy mặc lấy bộ quần áo mới, sạch sẽ, hãy đi dép vào để thấy rằng mình là người tự do, hãy xỏ nhẫn vào tay để biết rằng cha vẫn coi con là con của cha như ngày nào.

Cha mong con không giữ mặc cảm tội lỗi, con sẽ quên hết quá khứ: Những ngày ấy chỉ có giá trị là cho con hiểu rằng tình thương của cha dành cho con lớn lao biết chừng nào, và sống trong tình thương đó, con mới thực sự là người tự do. Cha mong con cảm thấy hạnh phúc vì được sống trong một mái nhà, có cha ở bên, và tình thương cha dành cho con không hề suy giảm.

Với người anh cả

Tại sao con lại thắc mắc, thậm chí giận dữ, khi cha mừng em con trở về?

Con nào chẳng là con. Cả hai anh em con từ lòng cha sinh ra. Cả hai anh em con đều được tình thương cha ấp ủ, nuôi dưỡng.

Con ạ, hãy tập sống yêu thương và độ lượng, nhất là đối với đứa em của con. Lẽ nào con yêu mến cha mà lại có thể không yêu thương em con được? Nếu con không yêu thương em con, làm sao con có thể yêu mến cha được? Em con có lầm lỗi thật, nhưng nó cần được yêu thương để thay đổi cuộc đời, nó cần được yêu thương vì nó là con cha, và vì nó dám chọn sống. Cha mong con cũng yêu thương nó, vì nó là em con.

Mọi sự rồi sẽ qua đi, chỉ còn lại tấm lòng. Cha mừng, cha mở tiệc lớn ăn mừng, vì em con đã khám phá ra ý nghĩa cuộc đời, đã nhận ra rằng tình thương vượt lên trên tất cả, tình thương xóa bỏ mọi lỗi lầm.

Chẳng lẽ con ganh tị với em con? Bấy lâu nay con sống với cha, sử dụng mọi của cải, và nhất là có cha ở bên cạnh mà con vẫn cảm thấy mình bị thua thiệt, bị xua đuổi.

Sao con lại tức giận không vào nhà? Hóa ra từ lâu nay con đã xa rời vòng tay của cha, dù trong thực tế con chưa bước chân ra khỏi nhà. Lẽ ra mọi niềm vui nỗi buồn của cha cũng là của con. Con không vui khi thấy cha vui sao? Con chỉ muốn tìm niềm vui theo cái nhìn của con, theo dự tính, theo góc độ của con, mà chẳng quan tâm gì đến cha. Như thế là chính con tự mình thoát khỏi vòng tay của cha, chính con từ chối tình thương cha dành cho con, kể như con tự bước ra khỏi căn nhà êm ấm này rồi!

Và rồi, chẳng lẽ bấy lâu nay con làm lụng vất vả không phải vì cha mà là vì bản thân con? Con chỉ muốn tìm lợi ích cho riêng mình. Những việc tốt con làm, phục vụ cha, làm lụng cũng chỉ là thứ lo tìm công đức cho mình. Thay vì vụ lợi như thế, lẽ ra con chỉ cần hiểu rằng tình thương mới có giá trị. Làm lụng vất vả mà không có tình thương thì chẳng đem lại lợi ích  nào! Không lẽ con sống với cha chỉ để mong được phần gia tài, được ăn sung mặc sướng, tìm lợi ích riêng cho mình? Phải có gì hơn thế nữa chứ!

Con ạ, bỏ tính ích kỷ hẹp hòi đi, đừng ghen tức với em con làm gì. Ghen tương ích kỷ làm cho đời con héo khô, làm cho lý trí con cùn nhụt. Việc gì mà con lại phải xem người khác đối xử với cha như thế nào, rồi con theo đấy mà xử sự. Thế thì sao gọi là thật lòng với cha được!

Hãy bước vào nhà chung vui với cha, với em con. Cha có thể nói với con rằng, từ nay, em con không những là một đứa con ngoan, mà còn rất ngoan nữa. Quên quá khứ đi con, nhìn về tương lai. Hãy sống tin tưởng, bao dung và độ lượng.

* * * * *

Chẳng lẽ Ta lại muốn cho ác nhân phải chết, chứ không muốn nó bỏ đường tà mà được sống sao? (Ed 18,23)

SUY NIỆM II

“TRỞ VỀ NHÀ CHA”

jn.nvh

Anh chị em thân mến. Dụ ngôn “Người con hoang đàng” trong Tin Mừng hôm nay có lẽ là một trong những câu chuyện đẹp nhất về lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó không chỉ là câu chuyện của một người con đi hoang, mà còn là câu chuyện của chính mỗi chúng ta. Bởi lẽ, ai trong đời cũng có những lần đi xa, có những lúc lạc đường, có những khoảnh khắc đánh mất chính mình. Nhưng quan trọng hơn cả, đây là câu chuyện về một người cha, một người cha luôn chờ đợi, luôn tha thứ và luôn mở rộng vòng tay đón nhận.

Hình ảnh người con thứ trong dụ ngôn phản chiếu thân phận của con người: thích tự do, muốn sống theo ý mình, đôi khi bất cần, thậm chí dám nói với cha mình rằng: “Cha cho con phần gia tài thuộc về con.” Đó chẳng khác nào bảo: “Cha hãy chết đi để con có phần thừa kế.” Nhưng người cha không giận dữ, không phản đối. Ông lặng lẽ chia gia tài, để rồi nhìn đứa con yêu dấu bỏ đi xa, tiêu tán hết những gì mình có. Đến khi đói khát, khổ cực, chàng thanh niên mới nhận ra mình đã lầm. Anh ta thốt lên: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi phải chết đói ở đây.” Đây là giây phút quan trọng nhất: hồi tâm và trở về.

Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô nói rằng: “Nếu ai ở trong Đức Kitô, thì người ấy là một thụ tạo mới, những gì cũ đã qua đi, và này đây tất cả mọi sự đã trở nên mới.” Trở về với Chúa không chỉ là quay về một nơi chốn, mà còn là được đổi mới trong tình yêu của Ngài. Đức Thánh Cha Phanxicô nhiều lần nhấn mạnh: “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi trong việc tha thứ, chính chúng ta mới là những người mệt mỏi khi xin Ngài tha thứ.”

Câu chuyện về người cha trong dụ ngôn làm chúng ta xúc động. Khi người con còn ở đàng xa, ông đã nhận ra nó. Điều đó có nghĩa là từ khi nó ra đi, ông chưa bao giờ thôi ngóng đợi. Ngày nào cũng trông chờ, để rồi khi thoáng thấy bóng dáng con mình, ông chạy ra ôm chầm lấy nó. Lưu ý nhé, chạy ra! Trong văn hóa Do Thái, một người cha già mà chạy như thế là điều không hợp với phẩm giá. Nhưng ông bất chấp tất cả vì một điều quan trọng hơn: tình yêu dành cho con.

Thế nhưng, đứa con cả lại không hiểu được điều đó. Nó ở nhà, nhưng không thực sự ở trong trái tim của cha mình. Nó tuân giữ mọi lề luật, làm mọi việc đúng đắn, nhưng lại thiếu tình yêu. Khi thấy cha mở tiệc đón em mình, nó tức giận, trách móc. Nó không nhận ra rằng: “Mọi sự của cha đều là của con.” Có lẽ, nó cũng cần một lần “trở về” – không phải từ phương xa, mà từ sự xa cách trong lòng mình.

Sách Giosuê kể rằng, khi dân Israel vào Đất Hứa, họ thôi ăn manna và bắt đầu ăn lúa mì của vùng đất mới. Đây là dấu chỉ của một giai đoạn mới, không còn sống nhờ vào sự chu cấp thần kỳ của Thiên Chúa trong sa mạc, nhưng bước vào một tương quan trưởng thành hơn, cộng tác với Chúa trong hành trình đức tin. Cũng vậy, khi chúng ta trở về với Thiên Chúa, không phải chỉ là để được tha thứ rồi tiếp tục như cũ, mà là để bước vào một đời sống mới – đời sống của tình yêu, của sự giao hòa, của ơn cứu độ.

Anh chị em thân mến. Mùa Chay là thời gian tuyệt vời để trở về. Chúng ta trở về với Chúa không phải vì sợ hãi, nhưng vì khám phá ra rằng chỉ nơi Ngài chúng ta mới thực sự có hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, không có tội lỗi nào quá lớn để Chúa không tha thứ, không có khoảng cách nào quá xa để Chúa không thể kéo chúng ta về. Điều quan trọng là chúng ta có can đảm để đứng lên và trở về hay không.

Ước mong mỗi người chúng ta, dù đang ở xa hay gần, cũng biết đặt mình trong vòng tay nhân hậu của Chúa, để một lần nữa nghe Ngài nói: “Con luôn ở với Cha, và mọi sự của Cha đều là của con.” Amen.

 

SUY NIỆM III

TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA LUÔN TUYỆT ĐỐI

Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang

Dụ ngôn người con hoang đàng hay còn gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu là một trong những trang Phúc âm lôi cuốn nhất được thánh sử Luca ghi lại cách sinh động. Dụ ngôn nêu bật lòng nhân từ thương xót vô điều kiện của Thiên Chúa đối với tội nhân biết sám hối trở về. Dụ ngôn kể rất dài nhưng chúng ta để ý 3 điểm Chúa Giêsu dạy chúng ta. Điểm thứ nhất, Thánh Luca viết: người con út bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Chúng ta nên nhớ rằng Người Do thái không ăn thịt heo nên không nuôi heo. Tại sao Thánh Luca không viết là nó xin đi chăn chiên, ăn đồ ăn của chiên? Bởi vì chúng ta nhớ cũng trong Tin Mừng Luca kể khi Chúa Giêsu trừ quỷ, trước khi chúng xuất khỏi người bị quỷ ám, chúng xin nhập vào bầy heo rồi lao xuống biển. Như vậy, Thánh Luca đồng hóa heo là quỷ. Cho nên, sau khi phạm tội, anh ta đã trở thành kẻ nô lệ cho quỷ dữ, quỷ dữ đã cướp mất con người và linh hồn anh rồi nhưng tình thương của Thiên Chúa vẫn, yêu thương và ở bên anh cho nên

thúc bách anh hồi tâm để nhìn ra cái lỗi của anh cũng nhờ hồi tâm (tức cầu nguyện với Chúa mà sám hối trở về nhà cha sung sướng hơn, bình an và hạnh phúc hơn, được mọi người yêu thương hơn mà nô lệ cho quỷ chẳng ai thương cứu đói anh. Tình thương Thiên Chúa cao vời và tuyệt đối là thế đó.

Điểm thứ 2, chúng ta thấy Thánh Luca viết rằng sau khi anh hồi tâm đắc tội với cha xong, anh đứng lên đi về nhà cha. Anh ta còn đứng ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương chạy ra ôm cổ anh ta hôn lấy hôn để. Chúng ta thấy nghịch lý chỗ này: ông cha ở trong nhà sao thấy con ở đằng xa? Người cha ở trong nhà nhưng ánh mắt tình thương vẫn luôn ngong ngóng người con từng ngày, từng giờ. Sáng trưa chiều lúc nào cũng đi ra cổng nhà nhìn về con đường làng xa xăm trông chờ mong con về. Cho nên, đang lúc ổng ngông ngóng thì thấy cái bóng ai thấp thoáng đằng xa nhận ra thằng con của mình ông chạy đến ôm nó hôn lấy hôn đáng lý ra nó phải chạy trước và rất nhanh đến cha, nói xin lỗi. Qua đây, Chúa Giêsu muốn dạy ánh mắt yêu thương của người cha là Thiên Chúa  vượt xa hơn ánh mắt xác thịt. Tình thương tha thứ của Thiên Chúa đi trước không đợi con người nói lời xin lỗi. Tình thương Thiên Chúa cao vời và tuyệt đối là thế đó.

Điểm thứ 3, Thánh Luca viết rằng sau khi người con hối hận trở về gặp người cha và nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Anh ta còn đang nói thì người cha liền bảo các đầy tớ rằng:Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”. Chúng ta để ý người cha ra lệnh: mau đem áo đẹp ra đây, bắt con chiên vỗ béo. Áo đẹp này không phải khi ra khỏi nhà anh để lại, không anh quơ đi tất cả mà. Chắc chắn chiếc áo đẹp này là cha may trong thời gian anh bỏ nhà ra đi vì ông luôn thương con, hy vọng con có ngày sẽ trở về và sẵn sàng tha thứ. Rồi ông nói bắt con bê vỗ béo làm tiệc ăn mừng. Con bê vỗ béo chứ không phải là con bê béo. Con bê béo chỉ cần vài tháng thì nó thành con bò nhưng Thánh Luca nói con bê vỗ béo là con bê được chăm sóc kỹ lưỡng đặc biệt nếu trong thời gian đó người con không về thì nói thành con bò, ông lại đi chăm sóc vỗ béo con khác cho tới khi nào người con trở về. Vì thế, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến thời gian chợ đợi của người cha dù có lâu đến mấy. Người cha thương người con không ở hệ tại nó sám hối hay là không, nó về hay là không mà người cha sẵn sàng tha thứ cho nó trước khi nó về. Nó đã xin lỗi đâu mà đã may áo, vỗ con bê béo. Như vậy Chúa Giêsu muốn nói tình thương và ân sủng của Thiên Chúa đi luôn bước trước. Tình thương Thiên Chúa cao vời và tuyệt đối là thế đó. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 dạy chúng ta rằng mọi sự đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hoà giải với Người. Thật vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh chị em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người (Chúa Giêsu) thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta dù Người không có tội, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người (2Cr 5,18-21). Như vậy, Thiên Chúa yêu thương ta trước khi chúng ta là tội nhân rồi chứ đâu phải là chúng ta sám hối ăn năn rồi Thiên Chúa mới yêu thương chúng ta.

Qua dụ ngôn về tình yêu nhưng không Thiên Chúa ban cho mọi người, chúng ta có tội lỗi mấy đi nữa vì chưng trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương làm sao. Vì thế, Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở”.  Mùa Chay qua bí tích hòa giải, Giáo Hội mời gọi chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc tình yêu vô bờ tuyệt đối của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn dang rộng cánh tay để ôm ấp, để vỗ về và tha thứ cho chúng ta trước khi ta trở về. Và tình yêu vô bờ tuyệt đối của Thiên Chúa chờ đợi gì nơi chúng ta hơn là chúng ta biết nhìn ra nơi chính cuộc sống đức tin của mình, nhìn tha nhân, người anh em của chúng ta, để chúng ta sống thánh thiện, yêu mến và tha thứ không ngừng.

Nguyện xin Chúa Giêsu, Đấng đã chết để mạc khải cho chúng ta biết tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, giúp chúng ta biết đón nhận tình yêu ấy trong từng giây phút của cuộc sống và san sẻ tình yêu ấy với mọi người anh em chúng ta. Amen.

 

SUY NIỆM IV

THIÊN CHÚA NGÓNG ĐỢI NHỮNG NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG

(Hội An 30/3/2025)

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thú

Ai trong chúng ta cũng từng ít là một vài lần nghe tiếng gà gáy như Phê-rô, nhưng không phải cuộc trở lại nào với Thiên Chúa đều nhẹ nhàng mà không gặp chướng ngại: chướng ngại trong chính bản thân, chướng ngại do những dị nghị bên ngoài. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư xầm xì với nhau về việc Chúa Giê-su đến với những người tội lỗi. Họ là những chướng ngại khiến người tội lỗi khó trở về với Chúa. Nhưng Tin Mừng hôm nay khẳng định, Thiên Chúa rất vui mừng khi một người tội lỗi trở lại với Ngài.

  1. Những đứa con hoang đàng

          Trong chương 15 của Tin Mừng theo thánh Luca, thánh sử làm nổi bật niềm vui của Thiên Chúa khi thuật lại bài giảng của Chúa Giê-su kể về ba dụ ngôn. Trong hai dụ ngôn đầu, Thiên Chúa được mô tả qua hình ảnh của người mục tử bỏ 99 con chiên lại để đi tìm chiên lạc cho đến khi tìm được, và được mô tả qua hình ảnh của người đàn bà nghèo tìm lại được đồng bạc bị mất. Con chiên đi lạc, đồng bạc bị mất là hình ảnh những tội nhân. Hai trường hợp tìm kiếm này được cô động lại trong lời reo mừng: “Xin chung vui với tôi! vì tôi đã tìm được con chiên bị lạc… đồng bạc bị mất.” Thiên Chúa vui mừng vì tìm lại được tội nhân, không để ai bị hư mất.

          Con chiên và đồng bạc không có ý thức, nhưng trong dụ ngôn thứ ba được nghe hôm nay, Chúa Giê-su nói đến trường hợp những người con bị lạc mất. Họ quyết định xa cha mình và xa nhà. Người cha đáng thương này không chỉ mất một đứa con, mà cả hai, mỗi đứa rời cha mình mỗi cách khác nhau và cả những đứa con khác nữa.

          Vào một ngày, đứa con út đến xin cha chia gia tài. Gia tài chỉ được chia sau khi người cha qua đời, vì thế, khi đòi chia gia tài, người con xem như trong cuộc đời mình không còn cha. Hơn nữa, đất đai trong gia tài đó là của từ thế hệ này truyền sang thế hệ khác, tượng trưng cho một dòng dõi, thế mà người con út nhẫn tâm xé bỏ tương quan gia đình và gia tộc, phủ nhận nguồn gốc của mình khi đòi chia gia tài. Đừng quên, người con út này nại đến quyền tự do của anh ta khi đòi chia gia tài. Và khi được chia gia tài, anh ta bỏ cha và gia đình ra đi phương xa. Người cha có người con út lạc mất!

          Đứa con trưởng của ông cũng lạc mất, dù nó đang ở trong nhà. Ở trong nhà, nhưng nó tự xem mình như người làm công trong gia đình, chứ không sống như người con của cha: “Đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè.” Người con này không còn là con của cha trong gia đình. Chúa Giê-su tóm tắt thái độ của anh: “Anh liền nổi giận và không chịu vào nhà.”

          Người cha trong dụ ngôn là hình ảnh Thiên Chúa. Ngài là người cha nhân hậu. Đứa con hoang đàng là hình ảnh những tội nhân khước từ Thiên Chúa và nại đến sự tự do của mình rồi xa Thiên Chúa, phung phá hết ân sủng được thừa hưởng. Đứa con trưởng là hình ảnh những người Do Thái, được thừa hưởng mọi ân huệ của Thiên Chúa, nhưng không nhận biết Thiên Chúa làm người và sống tình thân với Ngài.

Nhưng chưa hết, người cha nhân hậu là Thiên Chúa còn có những người con hoang đàng khác là chúng ta. Có người trong chúng ta giống người con út đi mãi trong tội lỗi; có người giống người con trưởng tưởng gần với Thiên Chúa, nhưng lòng quá hời hợt với Ngài và thiếu mối tương quan thân thiết với Thiên Chúa là Cha. Có người pha tạp tâm hồn của người con út và người con trưởng, ở gần Thiên Chúa mà tội lỗi ngập đầy! Tất cả chúng ta có chung một điểm, đó là sống như thể không có Thiên Chúa trong đời và trong tâm hồn chúng ta. Tắt một lời, chúng ta đang xa cách Thiên Chúa và sự xa cách đó do mỗi chúng ta định đoạt và chịu lấy hậu quả, trừ khi chúng ta trở về với Thiên Chúa.

  1. Thiên Chúa là Cha nhân hậu đang ngóng đợi con

          Tuy nhiên, sự phung phá gia tài ân sủng của những loại người con đó không phải là điểm then chốt Chúa Giê-su muốn nói với chúng ta qua dụ ngôn này, mà là Ngài muốn nhấn mạnh đến lòng thương xót và hào phóng ân sủng của Thiên Chúa.

          Như người cha mòn mỏi chờ đợi người con út hoang đàng trở về nhà, khi thấy con từ xa, ông chạy đến ôm lấy con mà hôn và không do dự, ông mặc áo mới, xỏ nhẫn và dép cho con, không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con của cậu ta: “Con Ta đây đã chết này sống lại, đã mất nay lại tìm thấy” (Lc 15,24), Thiên Chúa đối với người tội lỗi như thế, Ngài trông ngóng chúng ta trở về với Ngài hằng giây phút tại tòa Giải Tội để tha thứ và gọi chúng ta là con của Ngài cách âu yếm. Và như người cha ra năn nỉ người con trưởng vào nhà để sống tình thân cha-con, Thiên Chúa nài nỉ những ai đang sống gần Ngài trong nhà thờ, những người là con cái của Ngài nhờ được lãnh các bí tích, hãy sống thân thiết với Ngài trong tình Cha-con, đừng thờ ơ nguội lạnh. Thiên Chúa vui mừng, trên thiên đàng vui mừng, Giáo hội, giáo xứ cũng vui mừng vì có những người sống lại tình thân với Thiên Chúa và gọi Chúa là “Cha” cách kính mến. Quả thật, lòng thương xót của Chúa cho những người con hoang đàng cơ hội thứ hai sống tình thân với Thiên Chúa và ân sủng của Chúa cho họ tham dự bữa Tiệc Nước Trời, vì Thiên Chúa reo mừng “Con Ta đây đã chết này sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.”

          Mùa Chay hướng sự chú ý của chúng ta về lòng nhân hậu thứ tha và ban tràn trề ân sủng của Thiên Chúa trên thánh giá. Là các loại người con, điều Thiên Chúa ngóng chờ là cuộc trở về của chúng ta. Xin Chúa cho chúng con được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa như ánh mắt Chúa nhìn người thanh niên giàu có, ánh mắt Chúa nhìn Phê-rô sau khi ông chối Chúa. Cuộc sống chúng con thay đổi và có niềm vui khi nhìn vào ánh mắt đó của Chúa và chúng con dứt khoát trở về với Chúa, bất chấp các chướng ngại.

 

GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

Nguồn: giaophancantho.org

  1. BỨC HỌA CỦA REMBRANDT

Năm 1986 cha Henri Nouwen, nhà thần học và nhà văn người Hà Lan, đã đi tham quan St. Petersburg, Nga, Leningrad trước đây. Trong khi ở đó, ngài đã đến thăm bảo tàng Hermitage nổi tiếng, nơi ngài nhìn thấy, cùng với nhiều thứ khác, bức tranh của Rembrandt về Đứa con hoang đàng. Bức tranh được đặt ở một hành lang và nhận được ánh sáng tự nhiên của cửa sổ gần đó. Cha Nouwen đã đứng trong hai giờ, bị mê hoặc bởi bức tranh đặc sắc này. Khi ngài đứng đó, mặt trời thay đổi, và từ góc của ánh sáng thay đổi, ngài lại thấy một khía cạnh khác của bức tranh được hé lộ. Sau đó, ngài viết: “Trong ngày có bao nhiêu thay đổi thì cũng có bấy nhiêu bức tranh Đứa con hoang đàng”.

* Chúng ta khó thấy điều gì mới trong dụ ngôn Người con hoang đàng vì chúng ta đã nghe câu chuyện này quá thường xuyên. Tuy nhiên, tôi gợi ý rằng giống như Henri Nouwen đã nhìn thấy cả chục khía cạnh khác nhau trong bức tranh Đứa con hoang đàng của Rembrandt, thì chính câu chuyện này cũng có nhiều khía cạnh khác nhau.

  1. CON XIN LỖI MẸ

Roy Angell từng kể một câu chuyện rất hay về một góa phụ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, người đã mất đi đứa con trai duy nhất và chồng của bà. Bà lại đặc biệt cay đắng vì người hàng xóm của bà có năm người con trai, mà lại không mất một ai. Vào một đêm nọ, trong sự đau buồn tột độ của mình người phụ nữ này đã có một giấc mơ. Một thiên thần đứng trước mặt bà và nói: “Bà có thể nhìn thấy con trai của bà trở lại một lần nữa trong vòng mười phút. Bà sẽ chọn mười phút nào? Bà muốn đưa cậu ấy trở lại như một đứa trẻ nhỏ, một cậu bé có khuôn mặt bẩn thỉu, một cậu học sinh mới bắt đầu đi học, một học sinh mới hoàn thành trung học, hay như một người lính trẻ đã ra đi dũng cảm trong chiến tranh?” Người mẹ suy nghĩ một vài phút và sau đó, trong giấc mơ của mình, nói với thiên thần rằng bà sẽ không chọn những hình ảnh như vậy. Bà nói: “Hãy để chính tôi đưa nó trở lại. Khi còn là một cậu bé, trong một lúc tức giận, nó đã giơ hai nắm đấm lên dấn về phía tôi và nói: “Con ghét mẹ! Con chán mẹ!” Tiếp tục nhìn thiên thần, bà nói: “Trong một thoáng chốc cơn giận của nó nguôi ngoai và nó quay trở lại với tôi, khuôn mặt nhỏ nhắn bẩn thỉu của nó đẫm nước mắt, nó vòng tay ôm lấy tôi. Nó nói: ‘Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ vì con đã quá bất hiếu. Con hứa sẽ không bao giờ tồi tệ nữa và con yêu mẹ bằng cả trái tim mình. Hãy để nó trở về với tôi như vậy’, người mẹ thổn thức. Tôi chưa bao giờ yêu nó nhiều hơn thời điểm đó khi nó thay đổi thái độ và quay lại với tôi”. [Roy Angell, Shields of Brass, (Nashville: Broadman Press, 1965), trang 70].

* Chúa Giêsu nói rằng đây là cách Thiên Chúa cảm nhận về mỗi con người tội lỗi chúng ta.

  1. CẶP ĐÔI HOANG ĐÀNG

Tôi từng biết một cặp vợ chồng trẻ, người đã giành được giải thưởng lớn trong một chương trình truyền hình có tên “Kim tự tháp một trăm nghìn đô la”. Một hôm, họ cho tôi xem một đoạn băng của chương trình và tôi thấy họ ở đó trên tivi, nhảy lên nhảy xuống và la hét như mọi người vẫn làm trong các chương trình trò chơi. Họ đã giành được nhiều tiền hơn họ từng tưởng tượng. Giấc mơ Mỹ đã thành hiện thực. Nhưng việc giành được tất cả số tiền đó thực sự đã hủy hoại cuộc đời của họ. Trong khi trước đây họ luôn sống tiết kiệm thì giờ đây, họ ăn chơi xả láng và gánh những khoản nợ kếch xù. Khi tôi gặp họ, họ sắp mất tất cả những gì đang có và đang trên đường ly hôn.

* Tôi biết nhiều người muốn có cơ hội thành đạt! Có lẽ bạn cũng muốn có cơ hội đó. Nhưng hãy nhớ rằng, cặp đôi này thực sự rất đáng buồn. Họ là những đứa con hoang đàng.

  1. LÀM SAO BỊ LẠC

Một ngày nọ, ông nội và đứa cháu gái của ông đi dạo thì bỗng ông nhận ra rằng họ đã đi xa hơn rất nhiều so với những lần đi bộ trước đó. Ông hỏi cháu gái của mình: “Cháu có biết chúng ta đang ở đâu không?” Cô gái nói: “Không!”- “Cháu có biết làm thế nào để về nhà không?” Một lần nữa cô gái nói: “Không!” Sau đó, ông nội hỏi: “Nếu cháu không biết cháu đang ở đâu hoặc làm thế nào để về nhà, điều đó có nghĩa là cháu bị lạc?” Cô gái nói: “Không, ông ơi! Làm sao cháu có thể bị lạc nếu cháu ở bên ông? ”

  1. SINH VIÊN HOANG ĐÀNG

Cha Brady Whitehead, tuyên úy của Đại học Lambuth ở Tennessee, kể về câu chuyện có thật của một sinh viên có cha mẹ bị chết thảm trong một tai nạn. Chàng sinh viên này nghiễm nhiên trở thành người được hưởng di sản. Theo Brady, anh sinh viên bắt đầu phung phí tiền cho những chuyến du lịch xa hoa. Anh ấy thậm chí còn mời thêm bạn bè cùng đi để ăn chơi. Anh ta tiêu tiền quá nhanh đến nỗi một ngày nọ, cha Brady gọi anh vào văn phòng của mình và nói chuyện với anh. Ngài nói với tư cách là tuyên úy của trường rằng, ngài cảm thấy mình có trách nhiệm phải đặt câu hỏi về thói quen chi tiêu của anh. Anh sinh viên trả lời: “Nhưng điều quan trọng là cha không biết số tiền tôi được thừa kế.” Cha Brady nói: “Chà, có thể là như vậy, nhưng ngay cả đối với một tài sản lớn thì cũng có hồi kết.” – Chà, cậu sinh viên không nghe lời, và cha Brady cho biết vào thời điểm cậu ta tốt nghiệp trường Lambuth, tất cả tiền của cha mẹ cậu ta đã biến mất.

  1. ĐỨA CON HOANG ĐÀNG

Một thiếu niên đến gặp mục sư của mình để xin lời khuyên. Cậu bé nói: “Con đã bỏ nhà đi, và đã làm một số điều mà sẽ khiến bố con tức giận khi ông ấy biết. Con nên làm gì?” Mục sư suy nghĩ một lúc và trả lời: “Hãy về nhà và thú nhận tội lỗi của cậu với cha cậu, ông có thể sẽ tha thứ cho cậu và đối xử với cậu như đứa con hoang đàng.” Một thời gian sau, cậu bé báo cáo với mục sư: “Chà, con đã nói với bố những gì con đã làm, nhưng ông ta đã suýt giết chết đứa con hoang đàng!”

  1. CẦN PHẢI HÒA GIẢI

Elsa Joseph là một phụ nữ Do Thái bị dứt bỏ hai đứa con yêu quý của mình, cả hai đều là gái, trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhiều năm sau, bà mới biết ra rằng cả hai cô con gái của mình đều đã bị giết bằng khí độc tại trại Auschwitz. Từng là một nghệ sĩ vĩ cầm nổi tiếng, Elsa phản ứng với tin tức bi thảm này là chọn lấy cây đàn violin của mình và đi chơi ở Đức. Và ở đó trong phòng hòa nhạc quê hương của những kẻ giết các con bà, bà chơi đàn vĩ cầm và kể câu chuyện của mình, kêu lên tới Thiên đàng như để báo thù. Nhưng bà không tìm cách báo thù. Bà nói về nhu cầu sâu xa của thế giới là phải hòa giải và tha thứ, nếu không thì thế giới này sẽ tự xé nát nó. “Nếu tôi, một người mẹ Do Thái, có thể tha thứ cho những gì đã xảy ra”, bà nói với khán thính giả của mình không chỉ ở Đức, mà ở Bắc Ireland, Lebanon và Israel, “thì tại sao các bạn không thể xóa bỏ sự khác biệt của mình và hòa giải với nhau?”

* Trong các bài học Lời Chúa hôm nay, Thiên Chúa vô cùng nhân từ và tha thứ cũng thách thức chúng ta với cùng một câu hỏi.

  1. THA THỨC VÀ ĐƯỢC THA THỨ

Cách đây một thời gian, một phụ nữ đã viết một lá thư cho Ann Landers mô tả mối quan hệ tồi tệ từng tồn tại giữa cô và người anh. Phải đến cái chết của cha, cô mới có thể tha thứ cho người anh và một lần nữa coi anh như một người anh em. Một thời gian sau khi hòa giải, anh trai cô lên cơn đau tim và chết trong vòng tay của cô. Cô ấy kết thúc bức thư của mình bằng đoạn văn cảm động này. “Tôi biết ơn những năm tháng chúng tôi đã sống với nhau, nhưng tôi có thể hét lên khi nghĩ về thời gian chúng tôi đã bỏ lỡ vì chúng tôi quá ngoan cố và thiển cận để có thể hòa hợp. Bây giờ anh ấy đã ra đi, và tôi rất đau lòng”.

* Các bài đọc hôm nay là một lời mời gọi để chúng ta xem xét lại các mối quan hệ trong cuộc sống và sống phù hợp với lời dạy của Chúa Giêsu. (Mark Link trong Sunday Homilies; do cha Botelho trích dẫn).

  1. SAO KHÔNG THA THỨ

Câu chuyện kể về một người lính trong lúc chiến đấu. Anh ta uống rượu rất nhiều và luôn là mối đe dọa cho các đồng đội. Sĩ quan chỉ huy của anh đã mắng anh vài lần. Nhưng lúc ấy anh đã ném cuốn sách vào người chỉ huy. Đại tá nói với trung úy của mình: “Tôi đã tạo cho anh ấy nhiều cơ hội thay đổi, nhưng không có tác dụng.” Viên sĩ quan này trả lời: “Thưa đại tá, ông đã trừng phạt anh ta nhưng không hiệu quả. Tại sao không tha thứ cho anh ta?” Đại tá chấp nhận lời đề nghị này. Với người lính, ông nói: “Tôi đã phạt anh nhiều lần. Sự trừng phạt đã không có tác dụng. Lần này tôi sẽ tha thứ cho anh. Nhiều tội của anh sẽ bị xóa khỏi lí lịch cá nhân của anh.” Người lính tưởng phải thụ án trước tòa án quân sự, đã gục xuống và khóc nức nở. Từ đó anh ta không bao giờ uống rượu nữa.

Linh mục Giuse Ngô Quang Trung sưu tầm