Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống – Năm C


Lễ Chúa Thánh Thần

(Cv 2,1-11; 1Cr 12,3-13; Ga 20,19-23)

19-5-2013

 

Chúa nhật tới lễ Chúa Ba Ngôi.

Giáo Hội Chính Thống vẽ Chúa Ba Ngôi là hình ba người khách đến báo tin cho ông Ápraham sang năm sẽ có con. Trong câu chuyện lúc thì kể : có ba người khách, như câu : “Khi ông Apraham đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông” (St 18, 1-2a). Có lúc lại kể chỉ có một người khách, như câu : “Vừa thấy, ông Ápraham bèn từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy và nói : ‘Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài” (St 18,2b-3). Câu chuyện giống như mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi : tuy là ba ngôi Cha, Con và Thánh Thần; nhưng chỉ có một Chúa.

Giáo Hội Công Giáo thì lấy câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa, để vẽ Chúa Cha là một ông già đầu râu tóc bạc, Chúa Con là Chúa Giêsu chịu đóng đinh, và Chúa Thánh Thần là chim bồ câu (Mt 3,16).

Tại sao Giáo Hội Công Giáo dùng hình ảnh chim bồ câu để diễn tả CTT ?

Sách Giáo Lý Cho Người Trẻ số 115 viết như sau :

 

Hoà bình mà Thiên Chúa ký kết với loài người được diễn nghĩa bằng việc chim bồ câu hiện đến với ông Nôê. Thời cổ ngoại giáo cũng coi chim bồ câu là tượng trưng tình yêu. Nên các Kitô hữu đầu tiên đều hiểu ngay rằng Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa hóa thành ngôi vị, đã xuống trên Chúa Giêsu như chim bồ câu khi Chúa chịu phép rửa ở sông Jorđanô. Ngày nay chim bồ câu là dấu chỉ hòa bình, được thế giới công nhận, và là một trong những tượng trưng lớn về sự hòa giải giữa Thiên Chúa và nhân loại (St 8,10-11)

Qua sách Giáo Lý cho người trẻ,

1- Chim bồ câu là biểu tượng của hòa bình : biểu tượng này lấy từ câu chuyện nạn hồng thủy thời ông Nôê. Hêt 40 ngày ông thả con quạ, con quạ không về, vì nó ở lại ăn xác chết; ông liền thả con chim bồ câu, bồ câu quay về, vì nước còn nhiều, không có chỗ đậu; bảy ngày sau, ông lại thả con chim bồ câu, bồ câu bay về mỏ ngậm cành thiên tuế ôliu. Ông Nôê biết là nước đã cạn.

2- Chim bồ câu là biểu tượng của tình yêu : các tôn giáo cổ đã dùng chim bồ câu làm biểu tượng của tình yêu. Sách Diễm ca cũng dùng chim bồ câu làm biểu tượng của tình yêu (Dc 1,15; 2,14; 4,1; 5,12; 6,9).

Và sách TM thánh Mt đã kể lại cảnh Chúa Giêsu chịu phép rửa của thánh Gioan trong dòng sông Gióc-đan như sau : “Khi Chúa Giêsu vừa chịu phép rửa xong, Người lên khỏi nước. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người” ( Mt 3,16).

Các tín hữu đầu tiên đã hiểu chim bồ câu là hình ảnh về CTT, vì CTT là tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con.

CTT là yêu thương và hiệp nhất.

Bđ1 : Sách Công Vụ Tông Đồ trong bđ1 kể chuyện CTT hiện xuống. Sau khi nhận được ơn CTT, các tông đồ ra ngoài rao giảng. Dân chúng “kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình” (Cv 2,6), “nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta” (Cv 2,8). Trái với cảnh chia rẽ của tháp Baben.

CTT là hòa bình và phục vụ

Bđ2 : Thư Côrintô của thánh Phaolô trong bđ2 cũng diễn tả sự hòa bình và phục vụ của các con cái Chúa, qua hình ảnh “có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa” (1Cr 12,5), hay “như thân thể người ta, chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận” (1Cr 12,12).

Làm sao có sự hiệp nhất yêu thương, hòa bình phục vụ ?

– Đó là nhờ có CTT tha tội

BTM : Trong BTM, thánh Gioan kể Chúa Giêsu hiện ra ban CTT, đồng thời ban bí tích tha tội nữa : “Người thổi hơi vào các ông và bảo : ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ”. Sách giáo lý cho người trẻ thì viết : “Chim bồ câu  là một trong những tượng trưng lớn về sự hòa giải giữa Thiên Chúa và nhân loại

Tội lỗi khiến chúng ta chia rẽ, ghen ghét nhau. Muốn được đầm ấm hòa thuận thì phải đi xưng tội, phải chừa tội lỗi. Như kinh CTT chúng ta đọc : “Xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con”.

Nhưng làm sao để có CTT “xuống đầy lòng chúng ta” ?

– Phải cầu nguyện với Đức Mẹ.

Sách Công vụ Tông đò kể rằng : sau khi được chứng kiến cảnh Chúa lên trời trên núi Ôliu, thì “trở về nhà, các tông đồ lên lầu trên (tức là phòng Tiệc Ly) …Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria, thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,13…14)

Chúng ta đang sống trong tháng Đức Mẹ, tháng hoa. Chúng ta sốt sắng dâng nhiều hoa Mân Côi, xin Mẹ cầu CTT xuống đầy lòng chúng ta.

 ———————————-

Lễ Chúa Thánh Thần

12-6-2011

Chúa nhật tuần trước là lễ Chúa lên trời. Chúng ta đã kể những giây phút cuối đời của thánh nữ Magarita Maria, vị tông đồ của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đối với thánh nữ, giờ chết là “niềm hy vọng được toại nguyện”, là  “giây phút hạnh phúc nhất cuộc đời”, là “cửa vào niềm vui đời đời”, là “ngày sinh nhật”.

Thánh nữ Magarita Maria được  Chúa Giêsu cho thấy Trái Tim Chúa ba lần.

Lần I vào ngày lễ thánh Gioan tông đồ, ngày 27-12-1673. Thánh nữ kể lại như sau : “hôm đó, tôi viếng Mình Thánh Chúa. Tôi cảm thấy tâm hồn tràn ngập sự hiện diện của Chúa, đến nỗi tôi quên cả bản thân, không biết tôi đang ở đâu. Tôi phó mình cho thần trí Chúa, và tâm hồn tôi đắm chìm trong tình yêu Chúa. Chúa cho tôi được nghỉ yên một lúc lâu bên ngực Chúa. Chúa bày tỏ cho tôi biết những kỳ diệu của tình yêu Chúa và những bí mật không thể diễn tả nổi của Trái Tim Chúa”.

Chúa nói với thánh nữ : “Trái Tim Cha yêu nhân loại đến nỗi không thể giữ lại những ngọn lửa yêu thương trong Trái Tim. Nhờ con những ngọn lửa đó đổ xuông cho nhân loại, bày tỏ cho nhân loại. Nhờ những kho tàng quí giá của Trái Tim nhân loại được phong phú. Nhân loại cần những ơn lành để cứu khỏi bị sa đọa”.

Thánh nữ kể tiếp : “Ngực Chúa ở phía trái  bị lưỡi  đòng đâm thâu mở ra, và Trái Tim Chúa lộ ra”.

Chúa hỏi chị : “Con có muốn dâng trái tim  con cho Cha không “ ?

Chị thưa : “Con xin dâng”.

Chúa lấy trái tim của chị đặt vào Trái Tim đáng kính của Chúa. Chúa cho chị thấy trái tim của chị. Trái tim chị nhỏ như một phân tử đang cháy trong lò lửa Trái Tim Chúa. Rồi Chúa lấy ra. Trái tim của chị trông giống như một ngọn lửa hình trái tim. Chúa đặt trái tim chị vào lại ngực chị.

Chúa nói : “Từ nay tên con là ‘nô lệ của Cha’, là ‘tông đồ của Trái Tim Cha’

Bđ1 : Sách Công Vụ Tông Đồ trong bđ1 cũng diễn tả Chúa Thanh Thần bằng hình ảnh lửa. Sách kể : “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động… Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu trên từng người một” (Cv 2,1-3).

BTM : Trong BTM, thánh Gioan mô tả Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các tông đô như sau : “Chúa Giêsu thổi hơi vào các tông đồ và bảo : ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. anh em tha tội cho ai thì người ây được tha; anh em cầm giữ ai thì ngươi ấy bị cầm giữa’” (Ga 20,22-23).

Thánh Thần là để tha tội, để thanh tẩy lòng người, như lửa tẩy luyện vết bẩn.

Bđ2 : Được Thánh Thần thanh tẩy tội lỗi, nhân loại sẽ sống yêu thương hiệp nhất với nhau. Thánh Phaolô trong bđ2 viết : “Tất cả chúng ta dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã được chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí, để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1Cr 12,13).

Chúng ta chia rẽ, ghen ghét nhau, vì chúng ta tội lỗi.

Siêng năng cầu xin Chúa Thánh Thần “đôt lửa yêu mến trong lòng” và “sửa lại mọi sự trong ngoài”, thì chúng ta sẽ thương yêu nhau, hiệp nhất với nhau.

 

——————————————-

Lễ Chúa Thánh Thần

23-5-2010

Trong số 118 thánh tử đạo, có một thánh nữ. Đó là thánh nữ Anê Lê Thị Thành. Bà là người giáo xứ Phúc Nhạc. Anh Đê người giúp việc cho một trong 4 linh mục trốn ở Phúc Nhạc, vì ham tiền đã báo cho quan tổng trấn Nam Định về sự hiện diện của các cha trong giáo xứ.

Đúng ngày lễ Phục sinh ngày 14-4-1841, quan Trịnh Quang Khanh đem 500 quân đến bao vây. Hai cha trốn thoát, còn hai cha bị bắt. Cha Nhân trốn trên gác bếp dòng Mến Thánh Giá lòi vạt áo ra ngoài, nên cha và các nữ tu bị bắt. Còn cha Lý trốn dưới mương trong vườn nhà thánh nữ Anê Lê Thị Thành. Cha và bà cùng bị bắt.

Hai cha, các nữ tu, các giáo dân và bà bị đeo gông giải về Nam Định. Trên đường đi, chiếc gông qúa nặng, thánh nữ bị té nhiều lần. Để thánh nữ sợ hãi bỏ đạo, họ dùng nhiều cách dã man như : đánh đòn, cho rắn độc vào người, lột quần áo trước tòa…

Cô Luxia Nụ, con gái út, vào nhà tù thăm mẹ. Thấy áo mẹ đầy máu, cô khóc. Thánh nữ nói : “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy. Mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu sao con khóc ? Con hãy về coi sóc nhà cửa, còn mẹ đã phó dâng cho Chúa tất cả. Con hãy cầu nguyện cho mẹ”.

Chồng vào thăm, thánh nữ cũng nói : “Người ta đánh đập tôi vô cùng dã man, đến nỗi đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ cứu giúp, nên tôi vượt qua được mọi nỗi đau đớn”.

Thánh nữ Anê Lê Thị Thành không còn đủ sức ra pháp trường Năm Mẫu chịu chết cùng các cha, các nữ tu và các gíao dân khác. Thánh nữ gục chết trong tù ngày 12-7-1841. Thánh nữ được 60 tuổi.

Quan quân đem chôn thanh nữ ở pháp trường. 6 tháng sau được phép cải táng đem về chôn ở nhà thờ Phúc Nhạc. Khi mở nắp quan tài, lạ lùng, xác thánh nữ vẫn còn tươi như khi sống, quần áo không bị mục nát. Rất tiếc khi đưa xác vào chiếc quan tài mới, người ta đã đổ vôi vào, khiến xác thánh nữ tươi đẹp trở thành tro bụi,

BTM : Nhờ CTT hiện xuống, các tông đồ không còn sợ hãi, nhà không còn đóng cửa. Các ngài can đảm ra ngoài rao giảng Chúa cho mọi người như bđ1 sách Công Vụ Tông Đồ kể : “Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đứng giữa các ông và nói : Bình an cho anh em…Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần…Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,10.22.20)

Bđ2 : Thánh Phaolô trong bđ2 đã xác quyết : “Không ai có thể nói rằng : Đức Giêsu là Chúa, nếu người đó không ở trong Thần Khí” (1Cr 12,3b).

Bđ1 : Làm sao được CTT ?

          Phải cầu nguyện, cầu nguyện với Đức Mẹ.

          Bđ1 sách Công Vụ chỉ kể lúc CT hiện Xuống, nhưng trước đó đã kể những giây phút các tông đồ cầu nguyện với Đức Mẹ: “Bấy giờ các ông từ núi gọi là núi Ô-liu trở về Giêrusalem…Tấ cả các ông đều đồng tâm nhât trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu” (Cv 1,12.14)

Thánh Anê Lê Thị Thành đã can đảm chết cho Chúa là nhờ ơn CTT, nhờ Đức Mẹ cầu bầu, như thánh nữ đã nói với chồng : “Người ta đánh đập tôi vô cùng dã man, đến nỗi đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ cứu giúp, nên tôi vượt qua được mọi nỗi đau đớn”. Hay như thánh nữ nói với con gái : “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy. Mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu sao con khóc ? Con hãy về coi sóc nhà cửa, còn mẹ đã pho dâng cho Chúa tất cả. Con hãy cầu nguyện cho mẹ”.

————————-

Lễ Chúa Thánh Thần

11-5-2008

Thánh linh mục Giacôbê Đỗ Mai Năm sinh tai Đông Biên, Thanh Hóa. Sau khi chịu chức linh mục cha được sai về Nhà Chung Kẻ Vĩnh để giúp các chủng sinh. Vua Minh Mạng ra lệnh cấm đạo. Nhà Chung giải tán, cha phải ẩn trốn trong nhà ông trùm Tôn chừng 4 năm. Tình hình cấm đạo thêm gay gắt, cha phải bỏ nhà ông trùm, ẩn trốn nay đây mai đó. Ông trùm Đích thương cảm mời cha về nhà. Không may cha bị bắt. Cha bị tử hình ngày 12-8-1838, được 57 tuổi và 23 năm linh mục.

Trong tù, cha Giacôbê Đỗ Mai Năm luôn an ủi các bạn tù cùng bị giam với cha. Cha khuyến khích họ : “Với ơn Chúa giúp thì dầu hình khổ đau đớn mấy đi nữa, chúng ta vẫn có thể chịu đựng được, như thánh Lôrensô bị nướng trên giường sắt nung đỏ, như ba em trong lò lửa…Chúng ta hãy luôn luôn tin cậy, kêu cầu Chúa giúp sức trong giai đoạn thử thách cực kỳ gay go này”.

Khi an ủi các giáo hữu trong tù, cha Giacôbê Đỗ Mai Năm nhắc đến ơn Chúa giúp, tức là ơn CTT. Khi chịu phép Thêm Sức, ta nhận được 7 ơn CTT : khôn ngoan, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, hiểu biết, đạo đức và kính sợ.

 

Bđ1 : Sách CVTĐ trong bđ1 diễn tả lại ngày lễ CTT hiện xuống. Các tông đồ tụ họp cầu nguyện với Đức Mẹ và nhiều người khác nữa. Số người đông tới 120 người. CTT hiện xuống vào ngày lễ Ngũ Tuần.

Lễ Ngũ Tuần là lễ Tạ Ơn được mùa. Sau khi gặt lúa về, dân chúng chọn những hoa trai tốt đẹp nhất dâng lên Thiên Chúa, cám ơn Chúa đã cho mưa thuận gió hòa, cho được mùa.

Về sau người Do Thái mừng lễ Ngũ Tuần để nhớ lại biến cố nhận 10 giới răn trên núi Xinai. Từ ngày thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập tới núi Xinai đúng 50 ngày.Thiên Chúa lập giao ước với dân Do Thái. Kể từ đó, dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa.

Lễ Ngũ Tuần năm xưa với 10 giới răn đã làm cho dân Do Thái thành dân riêng của Thiên Chúa. Lễ Ngũ Tuần sau 50 ngày Chúa Phục sinh, với CTT mọi dân tộc trở thành dân riêng của TC, tức là Giáo Hội.

Bđ2 : Trong Giáo Hội, mỗi người Thiên Chúa trao cho một nhiệm vụ. Những nhiệm vụ tuy khác nhau, nhưng không đối nghịch nhau, vì tất cả đếu là ơn CTT ban để phục vụ nhau. Thư Côrintô trong bđ2, thánh Phaolô viết : “Có nhiều đặc sủng khác nhau…, có nhiều việc phục vụ khác nhau…, có nhiều hạot động khác nhau…, Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách là vì ích chung” (1Cr 12,4-7).

BTM : Giáo Hội của Chúa ngày nay vị chia rẽ làm 4 nhóm : Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành và Anh Giáo.

Sự chia rẽ vì tội lỗi. Tội lỗi gây nên chia rẽ. Để hiệp nhất, đòan kết phải diệt trừ tội lỗi. Vì thế, BTM thánh lễ hôm nay thánh Gioan kể Chúa Giêsu vừa ban CTT vừa ban bí tích tha tội. Chúa Giêsu nói với các tông đồ : “Người thổi hơi vào các ông và bảo : anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).

Lễ CTT hôm nay cũng ở trong tháng Đức Mẹ, tháng Hoa. Ngày xưa lễ CTT cũng có sự hiện diện của Đức Mẹ. Đức Mẹ cùng các tông đồ cầu xin CTT hiện xuống.

Cha thánh Giacôbê Đỗ Mai Năm đã khuyến khích các bạn tù cầu xin ơn CTT để chịu đựng những đau đớn thử thách. Cha cũng yêu mến Đức Mẹ, khuyến khích giáo dân cầu nguyện với Đức Mẹ để vượt qua những nỗi buồn trong cuộc đời. Bà trùm Kính thuật lại : “Cha rất kính mến Đức Mẹ. Cha thường khuyên chúng tôi mỗi khi có sự gì vui buồn trong gia đình phải cầu nguyện với Đức Mẹ”.

——————

Lễ Chúa Thánh Thần

27-5-2007

Năm 1999 một phụ nữ trong đoàn biểu tình chống lại chính quyền áp bức và bất công ở một nước Nam Mỹ. Bà bị bắt và bị nhốt biệt giam. Chỗ vệ sinh là một cái bô bên cạnh chỗ nằm ngủ trên sàn nhà. Phòng giam không có cửa sổ, chỉ có một bóng đèn tối đen.

Tên lính chế nhạo bà : “Chúng tôi đã lấy đi tự do, bạn bè, và  ánh sáng. Bà sẽ làm gì bây giờ ? Bà sẽ hoàn toàn cô đơn trong đêm tối

Người phụ nữ liền trả lời : “Anh lấy đi bóng đèn phát sinh ra ánh sáng, nhưng anh không thể lấy đi Ánh Sáng Sự Thật. Ánh sáng sự thật ở đây với chúng tôi trong đêm tối.

Người phụ nữ đã có Ánh Sáng Sự Thật ở với bà trong cảnh tù đày đen tối chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đã soi sáng bà.

 

BTM : BTM thánh lễ hôm nay thánh Gioan đã tả lại cảnh Chúa Giêsu ban Thánh Thần như sau : “Chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín và các ông sợ người Do Thái… Đức Giêsu đến thổi hơi vào các ông và bảo : Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần” (Ga 20,19-22).

Qua sự tường thuật của thánh Gioan, ngay buổi chiều ngày sống lại, Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần cho các tông đồ. Người ban bằng cách thổi hơi.

Chúng ta nhớ lại ngày Thiên Chúa tạo dựng con người. Người nặn cục đất thành hình người, mở lỗ mũi và thổi hơi. Cục đất người trở thành sống động. Hôm nay Chúa Giêsu đã thổi hơi làm cho các tông đồ sống lại. Khi Chúa chưa ban, các ông sợ hãi như người chết. Khi Chúa ban, các ông sống lại, can đảm, mở toang cửa phòng, ra ngoài rao giảng.

Thánh Thần chính  là hơi thở.. Hơi thở làm cho con người được sống.

Bđ1 : Thánh Gioan mô tả Chúa Thánh Thần xuống vào chiều chúa nhật Phục sinh, còn thánh Luca, trong bđ1, sách Công Vụ Tông Đồ thì kể CTT hiện xuống vào ngày thứ 50 sau Chúa sống lại.

Thánh Luca muốn liên tưởng đến biến cố Thiên Chúa ban 10 giới răn trên núi Xinai. Sau khi ra khỏi Ai Cập được 50 ngày, dân Do Thái tới núi Xinai. Ông Môsê lên núi nhận lãnh 10 giới răn, nhận lãnh lề luật, nhận lãnh sự thật, để làm thành một dân tộc, dân riêng của Thiên Chúa.

Thánh Gioan mô tả Chúa Thánh Thần là hơi thở ban sự sống, còn thánh Luca mô tả Chúa Thánh Thần là Lề Luật, là Giới răn, là sự thật để hiệp nhất thành một cộng đoàn. Sự hiệp nhất được diễn tả qua hình ảnh các người nghe các tông đồ giảng, tuy không phải là tiếng nói nước mình, nhưng họ vẫn hiễu như các ngài nói tiếng nước mình.Trái với hình ảnh Tháp Baben : mọi người tuy cùng nói một thứ tiếng, mà lại chia rẽ không hiểu nhau.

Bđ2 : Thánh Gioan coi CTT là hơi thở của sự sống, thánh Luca coi CTT là lề luật để hiệp nhất; còn thánh Phaolô trong bđ2 coi CTT là những ơn Thiên Chúa ban cho mỗi người.

Thánh Phaolô viết cho người Côrintô : “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách” (1Cr 12,4-7).

Tóm lại, CTT là hơi thở sự sống, là lề luật sự thật, là ơn thánh. Mỗi khi làm việc gì, chúng ta cầu nguyện xin CTT, để chúng ta có  ánh sáng sự thật soi sáng những việc chúng ta làm, để chúng ta có ơn thánh chu toàn bổn phận.

Linh mục Nguyễn Trung Thành