Chúa Nhật Lễ Lá Năm C


CHÚA NHẬT LỄ LÁ.

 TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA.

Làm phép và kiệu lá: Lc 19,28-40

Thánh lễ: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22,14 – 23,56

Thánh vịnh tuần II.

Giáo xứ Phước Tường Chầu Thánh Thể.

GIÁO HUẤN SỐ 20

Tông huấn HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ

PHÂN ĐỊNH

 “Bằng cách nào chúng ta biết một điều gì đó đến từ Thánh Thần hay đến từ tinh thần của thế gian hoặc tinh thần của ma quỉ? Cách duy nhất là phân định, việc này đòi hỏi một điều gì đó hơn là trí năng hay lương thức. Đó là một ân ban mà chúng ta phải cầu xin. Nếu ta cầu xin với lòng tin tưởng Chúa Thánh Thần ban cho mình ơn này, rồi tìm cách phát triển nó trong cầu nguyện, suy tư, đọc và bàn hỏi, thì chắc chắn chúng ta sẽ lớn lên trong khả năng thiêng liêng này.

Ơn phân định càng cần thiết hôm nay, vì đời sống hiện đại mở ra cơ man khả năng hành động và tiêu khiển, và thế giới trình bày tất cả chúng như cái gì hợp lệ và tốt. Tất cả chúng ta, đặc biệt là giới trẻ, bị nhận chìm trong một nền văn hóa vồ vập hối hả. Chúng ta có thể cùng một lúc lướt qua hai hay ba màn hình và tương tác đồng thời với hai hay ba chuyện ảo. Không có sự khôn ngoan phân định, chúng ta dễ dàng trở thành mồi ngon cho mọi trào lưu rẻ tiền”. (Tông huấn Hãy Vui mừng Hoan hỉ, số 166&167).

 

SUY NIỆM I

BUỔI SÁNG VÀ CÂY ÔLIU

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, O.P.

Từ một biến cố rất đơn giản

Chắc chắn rằng trình thuật Thương Khó được đọc lại trong Chúa nhật hôm nay là phần nòng cốt sơ khởi của Tin Mừng. Các tác giả đã cùng hướng về một biến cố rất đơn giản, nhưng đầy bi tráng, và cố gắng thuật lại cuộc Thương Khó. Các ông đã nỗ lực minh chứng rằng Kitô giáo không phải là một hoạt động phản loạn hay hình sự. Các ông đã tố giác âm mưu đẩy Đức Giêsu đến chỗ chết đồng thời cũng cho thấy sự vô tội của Người Tôi Tớ bị các tội nhân đóng đinh thập giá.

Qua các trình thuật này, dân Israel khám phá ra những điểm trùng hợp giữa cái chết của Người Tôi Tớ và những lời Thánh Kinh. Những lời này đã được nên trọn, không chỉ qua biến cố chính, nhưng cả trong những chi tiết. Trình thuật Tin Mừng cho biết bối cảnh lịch sử của cuộc Thương Khó là dịp cử hành lễ Vượt Qua của người Do Thái. Vì thế, cuộc Thương Khó chính là một hy lễ, một nghi thức mới của giao ước thay thế cho việc tế sát con chiên. Sau cùng, trình thuật cũng nêu lên mẫu gương về đức khiêm nhường, việc cầu nguyện, sự nhẫn nhục và những đau khổ của Đức Giêsu. Đó là con đường dành cho Hội Thánh.

Ngoài ra cũng nên để ý đến một vài yếu tố khác được xếp đặt trong biến cố thập giá: mối tương quan giữa Đức Giêsu và Giuđa giáo; nguồn gốc, bản chất và sứ mạng của Hội Thánh; vai trò của các Tông đồ nói chung và cách riêng của ông Phêrô.

Như cành Ôliu

Hôm nay là Chúa nhật của cây Ôliu – Chúa nhật Ôliu: những cành Ôliu, núi Ôliu. Cây Ôliu vẫn là biểu tượng cho hoà bình, cho bình minh trong sáng và êm đềm. Nó vẫn xuất hiện ở mỗi khúc quanh của bản văn Tin Mừng hôm nay.

Trong tiếng ồn ào đang làm náo động thành phố Giêrusalem khi Đức Giêsu tiến vào thành, khi Người bị bắt, bị xét xử và tiến lên đồi Canvê, cây Ôliu nhắc lại rằng tất cả những điều ấy đều khởi đầu ý nghĩa từ ngôi vườn chan hoà ánh sáng êm dịu của mặt trời ngày Vượt Qua.

Cây Ôliu chính là Đức Kitô. Chỉ mình Người biết được tính khắc nghiệt của cuộc Vượt Qua cũng như vinh quang ở cuối hành trình. Không phải là Người không rung động, nhưng Người bình tĩnh đợi chờ.

Chung quanh Đức Giêsu, người ta xô lấn nhau và xô lấn Người. Dân chúng hoan hô: “Chúc tụng Đức Vua”, và ít giờ sau, họ lại hô to: “Giết nó đi, giết nó đi!” Ông Phêrô quả quyết là hết lòng theo Người, “sẵn sàng vào tù, chết cũng can đảm”, nhưng lại bỏ rơi Người.

Trong tất cả những sự kiện ấy, Đức Kitô vẫn luôn tỏ ra Người là Thầy, là Người Tôi Tớ. Người xin Chúa Cha tha thứ, yên ủi, nâng đỡ.

Nếu có câu nào cần ghi nhớ, có lẽ sẽ là câu nói của Đức Giêsu với ông Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho cho các anh em của anh nên vững mạnh.”

“Một khi đã trở lại” từ những sai lầm, từ những nghi ngờ, từ những thay đổi, từ những cám dỗ về quyền lực, từ những ý nghĩ u ám về cuộc sống, từ tính ích kỷ… Một khi đã trở lại với Tình yêu, với sự thật…

“Hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh”, chính là hãy làm cho họ trở thành những người biết tin tưởng vào tình yêu vĩnh cửu của Chúa Cha, những người mến yêu Sự Sống, những người luôn vui tươi trước những điều phật ý, những người trong sáng trước những biến động của cuộc sống. Hãy đưa tay nâng đỡ họ để tất cả anh em được hưởng sự sống vĩnh cửu ngay từ bây giờ, sự sống đã trào vọt từ một ngôi mộ vào buổi sáng ngày lễ Vượt Qua.

Với mọi người, giữa những sợ hãi và tủi nhục, giữa những cô đơn và muộn phiền, Đức Kitô luôn nhắc lại lời mời đã được ngôn sứ Êdêkien nói trước: “Hãy trở lại và được sống.”

SUY NIỆM II

CHÚA NHẬT LỄ LÁ – 2025

Từ Hoan Hô Đến Đóng Đinh – Sự Bất Nhất Của Lòng Người”

Jn.nvh

Anh chị em thân mến.

Hôm nay, chúng ta bước vào Tuần Thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào Giêrusalem trong tiếng hoan hô “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến!” (Mt 21,9). Nhưng cùng trong Tuần Thánh này, chúng ta sẽ chứng kiến chính đám đông hôm nay tung hô Chúa, vài ngày sau lại gào thét “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Lc 23,21).

Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem, nhưng khác với những vị vua trần gian, Người không cưỡi trên chiến mã oai phong mà trên một con lừa, con vật khiêm tốn và hiền lành. Hình ảnh này ứng nghiệm lời tiên tri Dacaria: “Này đây, Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Người khiêm tốn ngồi trên lừa con” (Dcr 9,9). Cũng thế, sự đón chào của dân chúng khi trải áo và cành lá trên đường là một dấu chỉ quan trọng: họ nhìn nhận Người là Vua, nhưng không phải vị vua theo kiểu thế gian, mà là Vua của tình yêu, của sự khiêm nhường và phục vụ.

Thái độ bất nhất của đám đông dân chúng

Anh chị em thân mến.

Một trong những điều đáng suy nghĩ nhất trong trình thuật Lễ Lá là sự thay đổi nhanh chóng trong thái độ của đám đông. Họ reo hò, ca tụng Chúa khi Người vào thành, nhưng chỉ vài ngày sau lại đồng thanh đòi đóng đinh Người. Tại sao có sự thay đổi đột ngột như vậy?

Có thể họ mong đợi một Đấng Mêsia theo kiểu thế gian, người sẽ giải phóng họ khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma. Khi thấy Chúa Giêsu không hành động như họ mong muốn, khi thấy Người bị bắt, bị nhạo báng, họ lập tức quay lưng. Họ không còn nhìn thấy nơi Chúa Giêsu vị Vua quyền năng mà họ hy vọng, mà chỉ thấy một người bị kết án. Đây là một lời nhắc nhở mạnh mẽ cho chúng ta: đức tin của chúng ta có dựa trên sự trung thành với Thiên Chúa, hay chỉ dựa vào những mong muốn cá nhân?

Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philípphê nhấn mạnh: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa… đã tự hủy mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân… vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá” (Pl 2,6-8). Con đường của Chúa Giêsu không phải là con đường của vinh quang trần thế, mà là con đường tự hạ, vâng phục và yêu thương.

Noi gương khiêm nhường của Chúa Giêsu

Đức Thánh Cha Phanxicô trong một bài giảng Lễ Lá đã nói: “Chúa Giêsu không phải là một vị vua trần thế tìm kiếm vinh quang cho mình, nhưng là một vị Vua đến để phục vụ và hiến mạng sống mình cho nhân loại.” Ngài cũng mời gọi chúng ta suy xét: “Chúng ta có sẵn sàng bước theo Chúa Giêsu trên con đường tự hạ, hay chúng ta chỉ muốn theo Người khi điều đó mang lại lợi ích cho mình?”

Câu chuyện của đám đông Giêrusalem không chỉ là câu chuyện của quá khứ, mà còn phản ánh chính thái độ của chúng ta hôm nay. Chúng ta có thể sốt sắng trong những giờ kinh, những thánh lễ, nhưng khi gặp thử thách, chúng ta có còn trung thành với Chúa không? Chúng ta có dễ dàng thay đổi thái độ như đám đông xưa kia, chạy theo trào lưu, dư luận mà quên mất lòng trung tín với Thiên Chúa?

Đồng hành với Chúa Giêsu trong Tuần Thánh không chỉ là một nghi thức phụng vụ, mà là một lời mời gọi sống tinh thần khiêm nhường và phó thác. Hãy đón nhận ý nghĩa đích thực của việc chào đón Chúa bằng chính đời sống của mình: biết yêu thương, tha thứ và trung tín với Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Bước vào Tuần Thánh với con tim rộng mở

Hôm nay, chúng ta có dám trải lòng mình để Chúa Giêsu bước vào hay không? Lễ Lá mới chỉ là khởi đầu của Tuần Thánh. Cám dỗ vẫn còn đó, thử thách vẫn còn kia. Nhưng nếu chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu, chọn con đường yêu thương thay vì oán hận, con đường phục vụ thay vì tìm kiếm quyền lợi cá nhân, thì chúng ta sẽ thực sự được biến đổi.

Hãy bước vào Tuần Thánh với con tim rộng mở, với quyết tâm bước theo Chúa Giêsu đến cùng, không chỉ trong những ngày vui mà còn cả những khi gặp khó khăn. Chỉ khi đó, chúng ta mới thực sự thông phần vào vinh quang phục sinh của Người. Amen.

 

SUY NIỆM III

NIỀM HY VỌNG NẢY SINH TỪ TUYỆT VỌNG

Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang

Bài thương khó của Chúa Giêsu theo Thánh Luca kể về hành trình của Chúa Giêsu lên Giêrusalem và vào thành thánh để thi hành chương trình của độ của Ngài theo ý Chúa Cha. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, cũng có nghĩa rằng Ngài đích thân đi vào “quê hương” của nhân loại, vào “thành thánh” của khổ đau, thất vọng để biến đổi chúng thành “cái giá” phục hồi và đầy hy vọng. Ngài đã đối mặt với sự dữ không phải theo cách chúng ta nghĩ tưởng, nhưng theo đường lối và chương trình của Thiên Chúa. Qủa thế, qua Bài thương khó, Hội Thánh mời gọi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, đồng hóa với những đau khổ của Người để rồi sẽ được cảm nghiệm niềm hy vọng nảy sinh từ tuyệt vọng.

Như thế hôm nay Chúa Giêsu vào thành, đi vào cuộc khổ nạn thương khó của Ngài, cũng có nghĩa là Thiên Chúa không ở xa những đau khổ của loài người. Ngài ở gần, ở giữa những đau khổ của chúng ta. Hôm nay Ngài đi vào thành thánh, đi vào những khổ đau của nhân loại. Chúa viếng thăm và chia sẻ kiếp làm người với chúng ta. Ngài không đứng xa xa để chúng ta thờ lạy, Ngài không xa lánh những đớn đau của nhân loại. Ngài liên kết với chúng ta, cùng chung số phận với nhân loại. Quả thế, dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hơn 2000 năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.

          Tuy nhiên, chúng ta hôm nay những người tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô và là những người lữ hành hy vọng, hãy nhìn cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó chúng ta cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa hơn 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài.

Vì vậy, Chúa Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn. Vâng, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta. Vì vậy, hãy nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để nảy sinh niềm hy vọng vì cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa dành cho chúng ta, để cho tâm hồn được phấn khởi vì được thánh thiện hơn, tin yêu hơn, xác tín hơn, yêu thánh giá đời mình và cũng hãnh diện vui lòng vác thánh giá theo Chúa mỗi ngày để tràn đầy niềm hy vọng không làm ta thất vọng giữa cuộc đời vì chưng như lời Thánh Phaolô xác tín rằng thập giá luôn là nguồn hy vọng và ơn cứu độ đối với những ai tin vào Thiên Chúa, chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cr 1,24).  Amen.

 

SUY NIỆM IV

NHẬN DIỆN CHÚNG TA TRONG ĐÁM ĐÔNG THEO CHÚA

(Hội An 13/4/2025)

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thú

Hôm nay, qua bài thương khó, chúng ta được mời gọi bước những bước đi quyết liệt theo Chúa Giê-su trên con đường thánh giá và tham dự thời điểm quyết định của Chúa Giê-su trên thánh giá và cuộc phục sinh của Ngài. Trên con đường theo Chúa, có nhiều người bước theo. Tuy nhiên, mục đích và tâm tình mỗi người mỗi khác, nên chúng ta tận dụng cơ hội này để kiểm điểm lại tâm tình theo Chúa trong tuần cao điểm này, bằng cách nhìn lại những đặc điểm của một số nhân vật trong cuộc khổ nạn: có một số đặc điểm đáng khen nêu gương cho chúng ta; có những tính cách đáng bị từ chối, vì không thật lòng yêu mến Chúa.

  1. Những tính cách đáng chê bỏ

          – Quan tổng trấn Philatô: Ông này sợ làm đám đông buồn lòng, đã chối bỏ chân lý, không dám nhìn nhận sự thật vô tội của Chúa Giê-su, để mặc Chúa cho đám đông quyết định.

          Có khi nào chúng ta vì lợi ích trần thế đã chối bỏ liên quan đến Chúa, bất chấp sự thật chúng ta thuộc về Chúa? Sự chối bỏ Chúa như thế đang biến chúng ta thành Philatô thời đại, người không có can đảm sống sự thật.

          – Những người biệt phái và các nhóm Do Thái: Họ là những người trí thức trong xã hội, biết nhiều về thánh kinh, nhưng tâm hồn xa lạ với Chúa Giê-su. Họ không nhìn nhận Chúa Giê-su, lại còn hướng dẫn đám đông không thờ phượng Chúa và kết tội chết cho Chúa.

          Có khi nào chúng ta trở nên người quá tự hào mình hiểu biết giáo lý của Chúa, tự hào về công lao của mình, đến nỗi xem thường những lời Giáo Hội hướng dẫn, xa tránh cả Thiên Chúa? Hậu quả sẽ là có những lời phỉ báng Giáo Hội của Chúa trên chính môi miệng của chúng ta.

          – Đám đông hô “đóng đinh” Chúa: Họ để mình bị những người khác dẫn dắt sai lạc. Người ta lên án Chúa, mình cũng lên án Chúa; người ta chối bỏ liên quan đến Chúa, mình cũng phủi tay không liên hệ gì với Chúa; người ta hả hê bắt được Chúa, mình cũng vung tay hét lớn: “Đóng đinh nó vào thập giá.”

          Chúng ta cần nhìn lại vị trí của chúng ta trong đám đông, có là người giúp đám đông yêu mến Chúa và theo Chúa, hay là người phụ họa với đám đông chống đối và làm hại Chúa?

  1. Những tính cách nêu gương dưới chân thánh giá

          – ông Simon thành Xi-rê-nê: Ban đầu ông bị bắt để vác phụ thánh giá của Chúa, nhưng khi vác thánh giá, ông cảm thông với Chúa và tận tình chia sẻ gánh nặng thánh giá của Chúa.

          Chúng ta nhiều lần tránh né vác thánh giá theo Chúa. Nhưng không thể theo Chúa mà không vác thánh giá. Vậy, chúng ta cùng ông Simon vác thánh giá với Chúa trong cuộc đời ta.

          – bà Vêrônica: Bởi lòng yêu mến Chúa, người phụ nữ này can đảm vượt hàng rào lính canh và đám đông đang hò reo giết Chúa,. Bà chia sẻ nỗi khổ đau của Chúa bằng cách lấy khăn lau mặt Chúa.

          Lòng yêu mến Chúa nơi chúng ta có đủ thúc đẩy chúng ta tiến đến thờ phượng Chúa ngay cả khi chung quanh ít người thờ Chúa, có nhiệt thành để phục vụ Chúa và Giáo Hội là Thân Mình Chúa, dẫu chung quanh nhiều người thờ ơ?

– Mẹ Maria và thánh Gioan: Dưới chân thánh giá có Mẹ Maria và thánh Gioan cùng những phụ nữ khác. Các ngài không hò hét lên án Chúa, không thét gào đòi đóng đinh Chúa, không bỏ rơi Chúa. Các ngài trung thành theo Chúa đến cùng. Trong lịch sử Giáo Hội có nhiều tín hữu hiến dâng đời mình cho Chúa như thế và trung thành với Chúa như thế.

Giáo Hội chỉ mạnh, một khi tín hữu sống ơn Chúa Thánh Thần để kiên trung theo Chúa; ngược lại, khi tín hữu mải mê sống trong tội lỗi, Giáo hội phải chịu thiệt hại nặng nề và việc loan báo Chúa Giê-su bị sa sút.

Hy vọng sau những tuần Chay thánh và khi chiêm niệm bài thương khó của Chúa, chúng ta quyết sống thánh thiện, trở nên người tín hữu yêu mến và trung thành với Chúa Giê-su, hăng say phục vụ Giáo Hội, mang lại niềm an ủi sâu sắc cho Chúa chúng ta, Đấng đang phải chịu thương khó hằng ngày vì tội lỗi nhân loại chúng ta.

Gia Vị Cho Bài Giảng Lễ Chúa Nhật Lễ Lá, Năm C

Nguồn: giaophancantho.org

  1. CON LỪA CHÚA GIÊSU CƯỠI

Có một câu chuyện ngụ ngôn cổ kể về con lừa đã đưa Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong Chúa nhật Lễ Lá. Chú lừa con nghĩ rằng cuộc rước được tổ chức là để tôn vinh nó. “Tôi là một con lừa độc nhất vô nhị!” Con vật có thể đã nghĩ một cách phấn khích như vậy. Khi nó hỏi mẹ nó rằng liệu nó có thể đi một mình trên con phố vào ngày hôm sau để được tôn vinh một lần nữa hay không, mẹ nó nói: “Không, con chẳng là gì nếu không có Ngài đã cưỡi con.” Năm ngày sau, con lừa con nhìn thấy một đám người rất đông trên đường phố. Hôm đó là thứ sáu Tuần Thánh, và những người lính đang đưa Chúa Giêsu đến đồi Canvê. Chú lừa con không thể cưỡng lại sự cám dỗ về một buổi cung nghinh hoàng gia khác. Nó bỏ qua lời cảnh báo của mẹ và phóng nhanh ra đường, nhưng phải bỏ chạy vì bị quân lính đuổi theo và mọi người ném đá nó tới tấp. Vì vậy, con lừa con cuối cùng đã học được bài học rằng nó chỉ là một con lừa tội nghiệp nếu không có Chúa Giêsu cưỡi lên.

* Khi bước vào Tuần Thánh, các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc sống của mình để xem liệu chúng ta có mang Chúa Giêsu trong mình và làm chứng cho Ngài qua cuộc sống của chúng ta hay không.

  1. HOAN HÔ MARCONI

Khi con tàu Titanic chìm trong vực thẳm của Đại Tây Dương vào ngày 15 tháng 4 năm 1912, 1517 người đã thiệt mạng. Tuy nhiên, 705 người đã thoát chết nhờ liên lạc vô tuyến được thiết lập giữa tàu Titanic và tàu Carpathia. Khi Carpathia, một tàu hơi nước chở khách xuyên Đại Tây Dương nhận được tin nhắn vô tuyến, nó đã chạy thật nhanh tới để đón những người sống sót trên xuồng cứu sinh. Khi tàu Carpathia đến New York, Marconi, người đã phát minh và giới thiệu liên lạc vô tuyến, đã có mặt tại cảng để tiếp nhận những người sống sót. Khi những người sống sót nghe tin Marconi ở đó, họ đã ca ngợi ông là “vị cứu tinh” của họ và họ đã đổ xô đến để gặp ông.

* Hai ngàn năm trước, người ta đã ca ngợi Chúa Giêsu ở Giêrusalem và họ đổ xô đi xem Người khi biết Người đến để cứu họ khỏi tội lỗi và ban cho họ sự sống mới. (Cha Jose. P, CMI).

  1. THÂN PHẬN NÔ LỆ

Có một sự kiện trong cuộc đời của thầy dòng Đa Minh người da đen, thánh Martinô de Porres, rất đáng được nhắc lại vào Chúa nhật Thương Khó. Nhiều độc giả đã biết được điều gì đó về sư huynh này ở Lima, nước Peru. Ngài sinh năm 1579, mất năm 1639, và được tôn vinh là thánh năm 1962. Trở lại thời thuộc địa của nước Peru, những người Tây Ban Nha cầm quyền đã đưa hàng nghìn người da đen châu Phi đến đây làm nô lệ. Một số nô lệ cuối cùng đã được tự do, còn hầu hết thì không. Ở Nam Mỹ như ở Hoa Kỳ việc kỳ thị chủng tộc rất nặng. Martinô đã tóm tắt lại bằng chính con người của mình, những tai ương của chủng tộc da đen bị bắt làm nô lệ. Mẹ của ngài, bà Anna Velasquez, là một phụ nữ da đen tự do; cha ngài là một nhà quý tộc Tây Ban Nha. Khi bà Anna cho Juan de Porres xem đứa con trai bé bỏng của mình, ông thốt lên: “Tôi không chấp nhận nó là của tôi. Nó đen đủi quá!” Tuy nhiên cuối cùng, ông cũng nhìn nhận quan hệ cha con hợp pháp của mình với Martinô. Nhưng ông rất ít giúp đỡ con trai mình, vì vậy Martinô phải sống như một người con lai ở rìa xã hội Lima. Một người lai nữa có thể vấy bẩn cuộc sống xã hội. Và ngài đã chọn cuộc đời tu trì. Gia nhập Dòng Đa Minh, ngài sống hết mình trong sự khiêm nhường và phục vụ người khác. Một ngày nọ, người cư sĩ tốt lành này biết được rằng bề trên của mình phải đối mặt với tình trạng thiếu tiền để điều hành tu viện, đã ra chợ bán một số vật có giá trị nhất của ngôi nhà. Martinô chạy theo vị bề trên và đuổi kịp ngài trước khi ngài đến chợ. Vị thánh thốt lên: “Xin đừng bán tài sản của chúng ta, bán con đi! Dù sao thì con cũng không cần được giữ lại; con mạnh mẽ và có thể làm việc!” Bề trên vô cùng cảm động, lắc đầu: “Con trở về tu viện.” Ngài nhẹ nhàng nói: “Con không phải để bán!” Vì vậy, Martinô vẫn được tự do.

* Vị tu sĩ cũng đã cố gắng chân thành noi gương Chúa Kitô đã “trút bỏ chính mình và mặc lấy hình hài nô lệ… sẵn sàng chấp nhận ngay cả cái chết, chết trên cây thập giá.” (Pl 2, 7.8) Bài đọc hai hôm nay. (Cha Robert F. McNamara).

  1. VUA GIÊSU TIẾN VÀO THÀNH THÁNH

Tác giả người Hy Lạp Plutarch mô tả cách các vị vua khải hoàn tiến vào một thành phố. Ông kể về một vị tướng La Mã, Aemilius Paulus, người đã giành chiến thắng quyết định trước quân Macêđônia. Khi Aemilius quay trở lại Rôma, cuộc rước khải hoàn tôn vinh ông kéo dài ba ngày. Ngày đầu tiên được dành để trưng bày tất cả các tác phẩm nghệ thuật mà Aemilius và quân đội của ông đã cướp được. Ngày thứ hai được dành cho tất cả vũ khí của quân Macêđônia mà họ đã chiếm được. Ngày thứ ba bắt đầu với phần còn lại của chiến lợi phẩm được kéo với 250 con bò đực, có sừng dát vàng. Số tiền này tương đương hơn 17.000 cân vàng. Tiếp sau đó là vị vua bị bắt và bị sỉ nhục của Macêđônia cùng với đại gia đình của ông ta. Cuối cùng, Aemilius tự mình tiến vào thành Rôma, cưỡi trên một cỗ xe lộng lẫy. Aemilius mặc một chiếc áo choàng màu tím, được đính các lá vàng. Ông cầm vòng nguyệt quế của mình trên tay phải. Ông đứng trên một chiếc xe, tiến đi cùng với một dàn hợp xướng lớn hát những bài quân nhạc hùng tráng, ca ngợi những thành tích quân sự của Aemilius vĩ đại.

* Thưa các bạn, đó là cách một vị vua trần gian tiến vào một thành phố, nhưng còn Vua các vua thì sao? Người chỉ cưỡi trên một con lừa con theo lời ngôn sứ Dacaria đã mô tả. Vua các vua, Đấng Messia, đến không phải trên một con chiến mã oai hùng, mà cưỡi một con lừa khiêm tốn.

  1. THẬP GIÁ QUA NHIỀU THẾ KỶ

Cho đến thế kỷ thứ năm sau Công nguyên, các Kitô hữu đầu tiên thường tránh trưng bày thập giá có thân thể của Chúa Giêsu. Thật sự, ngay cả những cây thánh giá trần cũng hiếm khi được trưng bày cho đến thế kỷ thứ tư sau Công nguyên. Như J. H. Miller đã giải thích, có nhiều lý do khiến Giáo hội miễn cưỡng dựng hình tượng cây thánh giá công khai. Đối với nhiều người Do Thái và dân ngoại, thập giá phô bày sự mâu thuẫn dường như không thể dung hòa của niềm tin Kitô giáo, theo đó một người bị đóng đinh cũng là vị Thiên Chúa. Khi các tà giáo khác nhau tấn công vào thần tính hoặc nhân tính của Chúa Kitô thì biểu tượng cây thập giá dường như càng làm trầm trọng thêm cuộc xung đột và đối kháng tư tưởng ấy. Hệ quả là hình ảnh thập giá đã bị tránh né. Phải đến thế kỷ thứ tư (dưới thời trị vì của Constantine), thập giá mới bắt đầu xuất hiện ở mọi nơi trước công chúng như là biểu tượng riêng của Kitô giáo. Mặc dù xuất hiện rộng rãi trong nghệ thuật và kiến trúc Kitô giáo, thập giá vẫn là một biểu tượng đa chiều ý nghĩa. Nơi xà ngang của nó, cái chết giao thoa với sự sống; tội lỗi gặp được ơn cứu rỗi; sự quy phục nối liền với chiến thắng; trần gian kết nối với siêu việt. Thập tự giá phô bày vừa những khía cạnh hèn hạ nhất của thân phận con người vừa phản ánh vẻ cao cả và uy nghiêm nhất của thần tính.

* Như nhà thần học Karl Rahner đã từng giải thích: “Thập giá Chúa Kitô cho thấy rõ nhất tội lỗi thực sự là gì. Thập giá Chúa Kitô đã không ngần ngại mở toang điều mà thế gian vẫn muốn giấu kín cho chính nó: rằng nó đã nuốt chửng Con Thiên Chúa trong tội lỗi mù quáng điên rồ- một tội lỗi mà sự căm ghét độc ác đã thực sự bùng cháy tiêu tan khi được tiếp xúc với tình yêu Thiên Chúa.

  1. BỎ CHÚA HAY BỎ VIỆC

Constantine là đại hoàng đế La Mã đầu tiên theo Kitô giáo. Cha của ông, Constantius I, người kế vị Điôclêtianô lên ngôi hoàng đế vào năm 305 sau Công nguyên, là một người ngoại giáo nhưng có trái tim ôn hòa đối với các Kitô hữu. Người ta kể rằng sau khi Constantine lên ngôi, ông đã phát hiện ra rằng nhiều người theo Kitô giáo đã nắm giữ những công việc quan trọng trong chính phủ và trong triều đình. Vì vậy, ông ban hành một mệnh lệnh hành pháp cho tất cả những Kitô hữu đó: “Hoặc là các bạn từ bỏ Chúa Kitô hoặc từ bỏ công việc.” Phần lớn các Kitô hữu đã bỏ công việc của họ chứ không bỏ Chúa. Chỉ có một số kẻ hèn nhát từ bỏ tôn giáo vì sợ mất việc làm. Hoàng đế hài lòng với đa số những người đã thể hiện sự can đảm của họ và giao lại công việc cho họ trong khi ông đuổi hết những người đã cam tâm bỏ lòng trung thành với Chúa để giữ công việc. Ông nói với họ: các bạn không trung thành với Chúa của các bạn, thì các bạn cũng không trung thành với tôi!”

* Hôm nay chúng ta cùng với một đám đông vô danh no nức rước Chúa vào Thành Thánh để đi tới những ngày đau khổ, chúng ta có dám đứng lên ủng hộ Chúa khi Người bị tuyên án tử hình không?

  1. DẤU THẬP TRÊN CỔ CON LỪA

Dù sách Tin Mừng không ghi rõ, chúng ta biết rằng đây không phải là chuyến cưỡi lừa đầu tiên của Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Bản văn của Mátthêu không trình bày chi tiết về việc Giuse đã cùng Maria đi Ai Cập và trở lại Nazarét bằng phương tiện gì. Tin Mừng Luca cũng không mô tả cách Maria và Giuse hành trình đến Bêlem như thế nào. Nhưng tất cả chúng ta đều lưu dấu trong đầu hình ảnh Mẹ Maria mang thai ngồi trên lưng một con lừa khỏe mạnh. Tâm trí của chúng ta in rõ hình ảnh Mẹ Maria ẵm Chúa ngồi trên con vật đó để chạy trốn đến Ai Cập, rồi hành trình trở về nhà tại Nazarét sau khi vua Hêrôđê chết. Truyền thống của Giáo hội từ lâu đã cho rằng để tôn vinh sự phục vụ khiêm nhường của con lừa đối với Chúa Giêsu, con vật đã được khen thưởng bằng một “dấu ấn hình thập giá” vĩnh viễn, bởi đó hầu hết các con lừa đều có hình chữ thập đen đặc trưng trên vai vững chắc của chúng.

* Nếu sứ mệnh của Giáo hội là mang Chúa Kitô đến trong thế gian, thì có thể nói mỗi chúng ta được kêu gọi trở thành một con lừa, tận tụy, trung thành, vượt khó…và tiến bước!

  1. “TÔI CHỈ BIẾT TÔI YÊU CHÚA GIÊSU”

Trong một lớp xã hội học về tôn giáo tại Đại học Virginia, giáo sư yêu cầu các sinh viên trong lớp nhập môn cho biết về niềm tin tôn giáo và những cam kết của mình. Một cô gái trẻ tên là Barb cho biết cô theo Kitô giáo. Vị giáo sư hỏi thêm: “Bạn đi theo truyền thống đức tin Kitô giáo nào? Chủ thuyết mộ đạo Bắc Âu, Anh quốc, hay chủ thuyết nào khác?” Cô sinh viên không hiểu câu hỏi của ông. Cuối cùng cô ấy nói: “Thưa ông, tôi không biết chính xác ý của ông; tôi chỉ biết tôi yêu Chúa Giêsu”.

* Là Kitô hữu nghĩa là đồng hóa với Chúa Giêsu hơn là thuộc về một danh xưng Kitô nào khác: Tôi là một Kitô hữu giáo viên hơn tôi là một giáo viên Kitô hữu; tôi là một Kitô hữu công nhân viên hơn tôi là một công nhân viên Kitô hữu…

  1. CON LỪA BIẾT NÓI

Có bao giờ bạn thắc mắc tại sao lừa là con vật duy nhất trong Kinh Thánh biết nói? Karl Barth (một nhà thần học Tin Lành nổi tiếng) trong bữa tiệc sinh nhật lần thứ 80 của mình đã đưa ra lời chứng của mình. Ông nói: “Kinh Thánh có nói về một con lừa, hay nói đúng hơn là một con lừa cái, nó biết dùng lời nói phản đối ông Bơliam đánh nó (Ds 22,28-30). Còn theo sách Dacaria 9,9 một con lừa được diễm phúc mang Chúa Giêsu đến Giêrusalem.”…“Nếu tôi làm được điều gì đó trong cuộc sống này để phục vụ Chúa và tha nhân thì tôi cũng làm như thân phận một con lừa: mang một gánh nặng những suy tư thần học và những trải nghiệm thiêng liêng để trình bày về đời sống Kitô hữu, mà các môn đệ của Chúa nói: “Thầy chúng tôi cần nó!” Vì vậy, dường như Chúa đã vui lòng sử dụng tôi vào lúc này, tôi sẵn sàng phục vụ hết sức mình…”

* ĐHY Roger Etchegaray (1922-1919) cũng đã viết một cuốn sách “Comme un âne, j’avance” (như một con lừa tôi tiến bước) để nói lên thái độ phục vụ của mình cống hiến cho Giáo hội. Quả thật, những tư tưởng lớn đều gặp nhau!

Linh mục Giuse Ngô Quang Trung sưu tầm