Chúa Nhật Lễ Lá – Năm C


TUẦN THÁNH NĂM.C

Thời GHVN sơ khai

Cha Alexandre de Rhodes, tên Việt Nam là Đắc Lộ và cha Marquez được sai ra miền Bắc truyền giáo. Hai cha đặt chân lên Cửa Bạng, Thanh Hóa, ngày 19-3-1627, cũng là vào dịp Tuần Thánh. Mới chân ướt chân ráo chưa thể tổ chức Tuần Thánh đầy đủ, nhưng vào ngày thứ sáu Tuần Thánh, hai cha cho rước Thánh Giá. Ở Cửa Bạng có một ngọn núi, hai cha muốn rước Thánh Giá lên dựng trên ngọn núi đó. Hai cha cho làm một cây Thánh Giá lớn bằng gỗ. Như Chúa Giêsu vác Thánh Giá lên núi Sọ, hai cha cũng vác Thánh Giá lên núi Cửa Bạng. Theo sau Thánh Giá là những nhà buôn người Bồ Đào Nha, cùng mấy người tân tòng. Vì tò mò, dân chúng đi theo rất đông. Lên tới núi, Thánh Giá được dựng lên. Cha Đắc Lộ viết cảm tưởng ; “Cờ chiến thắng đã được dựng lên, thời giờ tin lành ơn cứu chuộc đã điểm, và trang đầu tiên của lịch sử Giáo Hội miền Bắc được mở đầu bằng hình ảnh thập giá… Lịch sử Giáo Hội là lịch sử chiến thắng bằng thập giá và trong thập giá

(Nguyễn Hồng, Lịch Sử Truyền Giáo Ở Việt Nam, T.I, trang 98).

Năm 1628, Tuần Thánh năm thứ II, hai cha tổ chức Tuần Thánh đầy đủ và long trọng tại Thủ đô Hà Nội. Lễ Lá thay vì lá vạn tuế, hai cha cho phép dùng lá dừa. Lễ Lá xong, họ đem lá về nhà trưng trên bàn thò hay đem về đặt trên mộ người qua đời.

Thứ năm Tuần Thánh hai cha cũng tổ chức nghi thức rửa chân, để nêu cao dức bác ái yêu thương trong đạo cho một xã hội bấy giờ phân chia giai cấp.

Suốt 40 ngày Mùa Chay, hai cha tổ chức ngắm 15 Sự Thương Khó Chúa Giêsu. Hình thức ngắm này còn tồn tại đến ngày nay. Khi nghe ngắm, giáo dân rất cảm động, đến nỗi họ bật khóc to tiếng

(Nguyễn Hồng, Sđd, trang 118).

Nghi thức Lễ Lá

 

Lễ Lá gồm hai phần :

  1. phần thứ I làm phép lá và rước lá,
  2. phần thứ II là thánh lễ.

Phần I làm phép lá và rước lá, để nhớ lại biến cố Chúa Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem. Chúa không cỡi ngựa, mà cỡi lừa đi vào. Chúa Giêsu đã thực hiện lời ngôn sứ Da-ca-ri-a : “Hãy bào thiếu  nữ Sion : kìa Đức vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Dcr 9,9). Dân chúng trải áo và phất lá tung hô : “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa” Mc 11,9). Tất cả hình ảnh đó nói lên Chúa Giêsu là vua. Song, Đức giáo hoàng Bênêđíctô viết : “Chúa Giêsu là vị vua bẻ gẫy cây cung chiến tranh, một vị vua hòa bình, vị vua đơn sơ, vị vua của người nghèo, của người hèn hạ

(Đức giáo hoàng Bênêđíctô XVI, Đức Giêsu Thành Nadarét, T.II, trang 15).

Phần II là thánh lễ, đặc biệt với bài Thương Khó. Năm nay chúng ta đọc BTK qua ngòi bút của thánh Mác-cô. Cả 4 tác giả sách TM đều kể lại cuộc TK này; nhưng mỗi tác giả có những cái nhìn khác biệt.

——————-

LỄ LÁ.C

Luca 22 ,14-23,56

 

Cả 4 sách Tin Mừng Mt, Mc, Lc và Ga đều tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa. Nhưng mỗi sách có những nét riêng đặc biệt. Năm nay chúng ta đọc Bài Thương Khó của thánh Luca. BTK của thánh Luca có 18 nét riêng đặc biệt. Chúng ta chú ý đến một vài điểm (1,3,4,6,7,12,13,14,15,17,18). Vài điểm làm nổi bật lòng thương xót, sự tha thứ, an ủi và đề cao phụ nữ, đến nỗi thi sĩ Dante, người Ý, đã nói :  “Thánh Luca là văn sĩ nói về lòng thương xót của Chúa Kitô”.

  • Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu bảo các tông đồ : “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22,40)
  • Người đi xa các ông một quãng chừng bằng ném một hòn đá và quì gối (Lc 22,41)
  • Bấy giờ có thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Người. Lòng xao xuyến bồi hồi, nên Người càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22,43-44)
  • Hắn lại gần Đức Giêsu để hôn Người. Đức Giêsu bảo hắn : “Này anh Giuđa, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao ?” (Lc 22,48).
  • Những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi : “Lạy Chúa, chúng con tuốt gươm chém được không ?” (Lc 2249).
  • Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành (Lc 22,51).
  • Ngay lúc ông còn đang nói thì gà gáy, Chúa quay lại nhìn ông Phêrô (Lc 22,61).
  • Họ bắt đầu tố cáo Người : “Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho Xê-da, lại còn xưng mình là Đấng Ki-tô, là vua nữa” (Lc 23,2).
  • Ông Phi-la-tô nói với các thượng tế và đám đông : “Ta không tìm thấy lý do nào để kết tội người này”. Nhưng họ cứ khăng khăng nói : “Hắn giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây mà xúi dân làm loạn”. Nghe nói thế, ông Phi-la-tô liền hỏi xem đương sự có phải là người Ga-li-lê không. Và khi biết Người thuộc thẩm quyền vua Hê-rô-đê, ông cho giải Người đến với nhà vua lúc ấy cũng đang có mặt tại Giê-ru-sa-lem. Thấy Đức Giê-su, vua Hê-rô-đê mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe nói về Người. Vả lại vua mong được xem Người làm một phép lạ nào đó (Lc 23,5-8).
  • Vua Hê-rô-đê và các thị vệ đều khinh dể Người ra mặt và chế giễu, rồi khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ và cho giải Người lại cho ông Phi-la-tô. Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và ông Phi-la-tô bắt đầu thân thiện với nhau, còn trước kia hai bên vẫn hận thù (Lc 23,11-12).
  • Ông Phi-la-tô nói với thượng tế, thủ lãnh và dân chúng : …Cả vua Hê-rô-đê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải ông ấy lại cho chúng ta. Và các người thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả. Vậy ta sẽ cho phạt đòn rồi thả ra” (Lc 23,15-16).

  12- Lần thứ ba ông Phi-la-tô nói với họ : “Thế người này đã làm gì gian ác ? Ta không tìm thấy nơi ông ấy lý do nào để kết án tử hình. Vậy ta sẽ cho phạt đòn rồi thả ra” (Lc 23,22).

 13- Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. Đức Giê-su quay lại phía các bà mà nói : “Hỡi phụ nữ Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm chi. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cái” (Lc 23,27-28).

14- Trên thánh giá, Đức Giê-su cầu nguyện rằng : “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

15- Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người…Nhưng tên kia mắng nó rằng : “Chúng ta chịu thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái”. Rồi anh thưa với Đức Giê-su : “Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh : “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở trên thiên đàng” (Lc 23,32.41-43).

16- Đến 3 giờ chiều, mặt trời ngưng chiếu sáng, bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. Đức Giê-su kêu lớn tiếng rằng : “Lạy Cha, con xin phó thác hờn con trong tay Cha”. Nói xong, Người tắt thở (Lc 23,45-46).

17- Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngược trở về (Lc 23,48).

 18- Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt thế nào. Rồi các bà trở về, chuẩn bị hương liệu và dầu thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền (Lc 23,35-36).

Đức giáo hoàng Phanxicô cũng nhấn mạnh đến lòng nhân ái.

– Trong giờ kinhTruyền Tin chúa nhật ngày 17-3, ngài nói : “Lòng thương xót có thể làm cho thế giới ấm áp hơn và công bằng hơn”.

– Trong thánh lễ nhậm chức ngày 19-3, ngài nói : “Oán ghét, ghen tương, kiêu ngạo làm cho cuộc sống bị nhơ bẩn… Chúng ta không được sợ sự hiền lành, và cũng đừng sợ sự dịu dàng

24-3-2013

———————————-

Thứ Hai

Ga 12,1-11

Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bê-ta-ni-a. Bê-ta-ni-a có nghĩa là “Nhà của gặp gỡ”. Chúa Giêsu đã vào nhà của ba chị em Matta, Maria và Ladarô. Gia đình đã làm cơm đãi Chúa. Cô Mátta lo việc nấu nướng, còn cô Maria thì xức dầu thơm cho Chúa. Theo sách TM của thánh Mc, cô xức thuốc thơm lên đầu Chúa; còn theo sách TM của thánh Gioan, cô xức chân Chúa.

Theo truyền thống người Do Thái, xức chân là xức cho người chết, chứ không xức cho người sống. Vì thế Chúa Giêsu mới nói : “Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy” (11,7). Và sách TM của thánh Lc thì viết : “Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn” (24,1).

Số dầu thơm cô Maria xức cho Chúa quãng độ 1/3 lít, giá khỏang 9 tháng lương của một công nhân. Vì thế ông Giuđa đã tiếc rẻ nói : “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy 300 quan tiền mà cho người nghèo” (11,5).

Theo truyền thống người Do Thái, người chết còn qúi hơn người nghèo. Giúp người chết là một trong những việc bác ái lớn lao nhất. Ông Giuđa cũng biết, nhưng ông lại phản đối, chỉ vì “y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp. Y giữ tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào qũi chung (11,6). Ông Giuđa đã đặt đồng tiền trên cả Chúa. Trái lại, cô Maria đã đặt Chúa trên tiền bạc. Chúa là trên hết, là tất cả.

Trong thư gửi các tín hữu Côrintô, thánh Phaolô viết : “Phàm người nữ nào cầu nguyện hoặc nói tiên tri mà lại để đầu trần, thì làm nhục kẻ làm đầu mình, vì người ấy như thể trọc đầu vậy. Người nữ mà để đầu trần, thì cứ cắt tóc đi. Nhưng nếu cắt tóc hay trọc đầu, là một điều xấu hổ đối với người nữ, thì hãy che đầu lại” (1Cr 11,5-6). Cô Maria lấy tóc lau chân Chúa là cô vượt cả lề luật. Qủa thật tình yêu thì không biên giới, bất chấp lề luật.

Thánh Gioan cho biết : “Cả nhà sực mùi thơm” (11,3). Các giáo phụ đã cắt nghĩa rằng : “Tòan thể Giáo Hội ghi nhớ hành động cao qúi này của cô Maria”. Hai sách TM của thánh Mt và Mc đều viết : “Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ đến cô” (Mt 26,13; Mc 14,9). Hội thánh nhớ hòai tình yêu của cô Maria đối với Chúa Giêsu.

         14-4-2003

——————————

Thứ Ba

Ga 13,21-38

Sự lừa dối của ông Giuđa lên tới cực độ. Ông là một nhà diễn xuất giỏi, là một người giả hình tuyệt vời. Ông che giấu được mọi tông đồ. Chỉ mình Chúa Giêsu biết âm mưu bán Thầy của ông. Nếu các tông đồ biết, chắc các ngài không để ông yên. Thánh Phêrô dám xin ông tí huyết, và tặng cho ông một nhát gươm.

Thánh Gioan kể : “Đức Giêsu cảm thấy tâm thần xao xuyến” (13,21). Khi gặp những người Hy Lạp trong dịp lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu cũng xao xuyến (Ga 12,27). Chúa xao xuyến về giờ chết của Chúa. Còn lúc này Chúa xao xuyến về sự phản bội của ông Giuđa : “Một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (13,21).

Chỉ trong 10 câu (21-31), tên ông Giuđa được nhắc đến 12 lần. Sự bội phản của một người bạn, một người thân thì sự bội phản đó đau đớn biết là dường nào. Bốn Sách Thánh dùng nhiều kiểu nói khác nhau để nói lên sự đau đớn này. Thánh Mc : “Một người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy” (Mc 14,18), “chính là một trong Nhóm Mười Hai đây” (Mc 14,20). Thánh Mt : Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ sẽ nộp Thầy” (Mt 26,23). Thánh Lc : “Bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy” (Lc 22,21).  Thánh Gioan : “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13,18), “chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao ? Thế mà một người trong anh em lại là qủy dữ” (Ga 6,70)…

Chúa đã tín nhiệm giao chức quản lý cho ông Giuđa, và Chúa còn qúi ông cho ông ngồi bên cạnh Chúa. Khi ăn, người Do Thái không ngồi ăn như chúng ta, mà là nằm. Bàn ăn thấp, hình chữ U, đặt gối chung quanh. Nằm nghiêng mình về phía trái, tì khủyu tay trái vào gối, còn tay phải lấy thức ăn. Nằm ăn như vậy, thì đầu của người này chạm vào ngực của người khác. Chúa Giêsu là chủ nằm ở giữa bàn. Thánh Gioan, người môn đệ Chúa yêu, nằm ở bên phải, đầu của thánh Gioan tựa vào ngực Chúa. Còn ông Giuđa nằm ở bên trái Chúa, đầu Chúa tựa vào ngực ông Giuđa. Ông Giuđa được nằm bên trái Chúa như thế, nên Chúa mới có thể chấm bánh đưa cho ông và nói riêng với ông : “Anh làm gì thì làm mau đi” (13,27).

Chỗ bên trái là chỗ danh dự, chỗ dành cho người bạn thân nhất. Chẳng những chỗ ngồi, mà cả miếng ăn Chúa cũng dành cho ông Giuđa, như Chúa nói với thánh Gioan : “Thầy chấm miếng bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy” (Ga 13,26). Theo phong tục người phương Đông, chủ đích thân đưa miếng ăn cho ai, thì đó là người thân nhất. Chúa đã làm hai cử chỉ : một là chỗ ngồi, hai là miếng ăn để ông Giuđa biết Chúa yêu, mà ông Giuđa vẫn cứ giả điếc làm ngơ.

Thánh Phêrô và các tông đồ cũng phản bội, đã chối Chúa, đã bỏ chạy; nhưng các ngài không cố ý, chỉ vì  nhút nhát, sợ hãi mà thôi. Còn ông Giuđa, ông cố ý, ông đã suy nghĩ và trù tính bán Chúa từ lâu.

Lý do nào ông Giuđa bán Chúa ? Bài TM ngày mai sẽ cho biết lý do.

15-4-2003

————————–

Thứ Tư

Mt 26,14-25

Bài TM thánh lễ hôm qua cho biết ông Giuđa bán Chúa. Bài TM thánh lễ hôm nay cho biết lý do ông Giuđa bán Chúa :

1- Ông Giuđa không có đức khiêm nhường : theo thánh Gioan, Chúa Giêsu loan báo Giuđa phản bội sau khi Chúa Giêsu rửa chân cho các tông đồ. Một trong những ý nghĩa của việc rửa chân là khiêm nhường. Chúa Giêsu nói với các tông đồ : “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. Thật, Thầy bảo thât anh em : tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em ! Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây : ‘Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con’” (Ga 1313-18).

 Ông Giuđa không chịu rửa chân cho người khác, nghĩa là không có lòng khiêm nhường, nên ông đã không chấp nhận Chúa. Ông đi theo Chúa vì tưởng rằng Chúa sẽ là một ông vua đầy quyền lực đánh đuổi quân Rôma, đem lại nền độc lập thịnh vượng cho quê hương xứ sở; không ngờ Chúa khiêm nhường như con chiên bị đem đi giết. Tưởng Chúa là người ăn trên ngồi trốc; không ngờ Chúa hạ mình sống như một người đầy tớ. Nên ông Giuđa đã phản bội Chúa.

2- Ông Giuđa không có tinh thần cộng đòan : Theo bài TM của thánh Mt hôm nay, khi Chúa Giêsu loan báo Giuđa phản bội, các tông đồ lần lượt đều hỏi Chúa : “Thưa Ngài, chẳng lẽ con sao ?” (26,22); chỉ một mình Giuđa hỏi : “Rabbi (nghĩa là Thầy), chẳng lẽ con sao ?” (26,25). Các tông đồ ai nấy gọi Chúa là Chúa, là Ngài, chỉ mình ông Giuđa gọi Chúa là Thầy. Như thế, ông khác người, không có tinh thần hò đồnng, tinh thần cộng đòan, tinh thần chung. Người không có tinh thần hòa đồng, tinh thần cộng đòan, tinh thần chung cũng là người không có lòng khiêm nhường.

3- Ông Giuđa coi trọng đồng tiền : theo bài TM của thánh Mt hôm nay, thì ngay sau khi bà Maria xức dầu thơm cho Chúa, ông Giuđa đã đi gặp các thượng tế để mặc cả về số tiền bán Chúa. Dầu thơm của cô Maria đáng giá 300 quan tiền, tức là lương 300 ngày công, hơn 9 tháng lương. Với cô Maria, tiền bạc chẳng đáng gì với Chúa; nhưng còn ông Giuđa thì khác. Ông nói : “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy 300 quan tiền mà cho người nghèo ?” (Ga 12,5). Thật ra, ông Giuđa đâu phải  qúi yêu gì người nghèo, mà là vì đồng tiền. Thánh Gioan đã viết về ông : “Y nói thế không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp : y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào qũi chung” (Ga 12,6). Ông coi tiền bạc qúi hơn Chúa, nên ông đã phản bội Chúa, đã bán Chúa có 30 đồng bạc, giá bán một người nô lệ. Vì đồng tiền mà coi Chúa bằng một tên nô lệ. Thánh Phaolô viết cho ông Timôthê : “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1Tm 6,10).

4- Ông Giuđa không qúi yêu bí tích Thánh Thể : cuối bài giảng về bánh Thánh Thể, thánh Gioan kể lại như sau : “Nhiều môn đệ liền nói : ‘Lời này chướng tai qúa ! Ai mà nghe nổi ?’…Ngay từ đầu Đức Giêsu biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người” (Ga 6,60.64).

Theo thánh Luca, Satan nhập vào ông Giuđa, ông ra đi gặp các thượng tế và lãnh binh để bắt Chúa Giêsu, sau đó Chúa lập bí tích Thánh Thể (Lc 22,3.19). Ông Giuđa đã không qúi yêu Thánh Thể, nên ông đi rồi Chúa mới lập.

12-4-2006

————————–

Thứ Năm

Ga 13,1-15

Ai trong chúng ta cũng đã nhìn thấy bức ảnh “Bữa Tiệc Ly”, nhưng nguồn gốc lai lịch thì ít ai biết. Bức ảnh “Bữa Tiệc Ly” do ông Leonard de Vinci vẽ. Ông là một họa sĩ đai tài của nước Ý. Ông là một trong những họa sĩ đã vẽ những họa phẩm tôn giáo nổi tiếng của Giáo Hội.

Bức ảnh Tiệc Ly ông Vinci phải vẽ nhiều năm mới hòan thành. Để vẽ Chúa Giêsu ngồi ăn tiệc với các môn đệ, ông phải đi tìm một người có khuôn mặt tương xứng với khuôn mặt thánh thiện hiền từ của Chúa. Ông đi tìm. Ông vào các nhà thờ và ông gặp được một thanh niên. Người thanh niên có khuôn mặt thánh thiện và hiền lành gần giống như Chúa.

Ảnh Chúa họa sĩ Vinci đã vẽ xong, các tông đồ khác dần dần cũng xong, chỉ còn có ông Giuđa ông chưa vẽ được. Để vẽ ông Giuđa, ông cũng phải ra đường tìm người làm mẫu. Ông vào các quán nhậu, các vũ trường, các nơi tội lỗi, và ông đã tìm được một người  có khuôn mặt thật xấu xí, thật dữ tợn, thật đểu cáng, để làm mẫu cho ông vẽ ông Giuđa. Khi vẽ gần xong ông Giuđa, người làm mẫu lên tiếng nói với họa sĩ : “Trước đây tôi đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ rồi !” Họa sĩ  Vinci ngạc nhiên hỏi : “Thật không ?”. Người làm mẫu qủa quyết : “Thật mà ! Tôi đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ Chúa Giêsu” (William Barclay, The Gospel of John, vol.I, p.227-228).

***

    Bức tranh “Bữa Tiệc Ly” hầu như ai  cũng biết. Tấm ảnh thường được vẽ lại hay được trưng bày trên bàn thờ, có khi được treo trong phòng ăn của gia đình.

Họa sĩ Leonardo vẽ bức tranh trong vòng 7 năm. Khó khăn nhất là đi tìm người mẫu để vẽ Chúa Giêsu và ông Giuđa.

Họa sĩ phải đi đây đi đó, phải lựa chọn giữa cả ngàn thanh niên, mới tìm được người làm mẫu cho họa sĩ vẽ Chúa Giêsu. Đó là một thanh niên, khuôn mặt của chàng toát lên sự hiền lành, thánh thiện.  Qua người thanh niên, họa sĩ đã vẽ Chúa Giêsu suốt 6 tháng mới xong. Tiếp tới là 11 tông đồ. Họa sĩ mất gần 5 năm mới vẽ xong 11 tông đồ.

Sang năm thứ bảy, họa sĩ  bắt đầu vẽ ông Giuđa. Tìm người mẫu vẽ ông Giuđa cũng khó khăn, không khác gì tìm người mẫu vẽ Chúa Giêsu. Ông được giới thiệu một người tù đang bị giam trong trong nhà tù ở Rôma. Từ thành phố Milanô ông đến thủ đô Rôma. Vào nhà tù, ông nhìn khuôn mặt người thanh niên, ông đồng ý ngay. Khuôn mặt tóat lên đầy đủ những nét mà ông cần, để vẽ khuôn mặt Giuđa. Đó là một khuôn mặt hám lợi, lừa lọc, đạo đức giả, tàn ác. Ong được phép đặc biệt của nhà nước Rôma đem về làm người mẫu. Ông mất cả năm mới vẽ xong ông Giuđa.

Bút vẽ hạ xuống bàn, Họa sĩ Leonardo da Vinci nói với các người lính bảo vệ: –  Các anh hãy đem anh này về lại nhà tù.

Lính bảo vệ lôi anh đi.

Anh xin được đến từ biệt họa sĩ . Anh quì xuống dưới chân họa sĩ khóc nói :

–  Thưa ngài Leonardo da Vinci, hãy nhìn con đi. Ngài không nhận ra con sao ?

Gần một năm qua, ông ngắm nghía anh cả hàng triệu triệu lần, để vẽ ông Giuđa. Ông chỉ thấy đó là nét mặt đểu giả của một người tù. Ông nói :

–  Không, ta không nhận ra anh là ai. Anh là người tù ở Rôma. Anh phải trở lại nhà tù !

Người tù rú lên :

– Ngài Vinci, ngài hãy nhìn kỹ con đi. Con chính là người mà 6 năm trước đã làm mẫu cho ngài vẽ Chúa Giêsu.

Cả phòng vẽ ngạc nhiên. Khi nhận ra, mọi người đều khóc.

6 năm trước, người thanh niên là người thánh thiện đạo đức, xứng đáng làm người mẫu vẽ Chúa Giêsu. Chỉ 6 năm sau, sống trong tội lỗi anh trở thành một người tù, một người độc ác, để làm mẫu vẽ ông Giuđa !

Ôi tội lỗi ! Tội lỗi đã phá hủy con người từ thân xác đến tâm hồn.

Nhưng, đội ơn Chúa, Chúa đã chết để xóa tội cho chúng con.

(Đinh Tất Quý, Lời Chúa & Cuộc Sống, Mùa Chay & Phục Sinh, trang 151)

***

Hôm nay Thứ Năm Tuần Thánh. Chính ngày hôm nay, Chúa Giêsu ăn Bữa Tiệc Ly với các tông đồ. Ba sách Tin Mừng Mt, Mc và Lc đều tường thuật Bữa Tiệc Ly này; chỉ trừ có sách TM của thánh Gioan là không. Nhưng thay vào đó, thánh Gioan tường thuật việc Chúa rửa chân.

Rửa chân là công việc của người dưới làm cho người trên, của nô lệ với chủ, của vợ với chồng, của con trai con gái với cha mẹ.

Khi rửa chân, Chúa Giêsu cởi áo ngòai ra, chỉ mặc áo trong, rồi lấy khăn thắt lưng, tức là mặc theo kiểu đầy tớ, kiểu nô lệ. Chúa Giêsu hạ mình làm đầy tớ, làm nô lệ để rửa chân các tông đồ.

Đối với thánh Gioan, rửa chân không chỉ có nghĩa là khiêm nhường, mà còn có nghĩa là phục vụ, phục vụ cho đến chết…..

Trong việc rửa chân, thánh Gioan đã viết về Giuđa : “Ma qủi đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giêsu” (Ga 13,2). Ma qủi tức là tội lỗi. Tội lỗi không thể hạ mình khiêm nhường, không thể phục vụ, không thể yêu đến chết được. Tội lỗi như Giuđa chỉ lừa thầy phản bạn mà thôi.

Còn khi đến rửa chân cho thánh Phêrô, thánh Phêrô xin rửa cả chân, cả tay, cả đầu nữa, thì Chúa Giêsu nói : “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa, tòan thân người ấy đã sạch” (Ga 13,10). Theo phong tục người Do Thái, trước khi đi ăn tiệc, người ta tắm. Tới nhà đãi tiệc chỉ việc rửa chân thôi. Tắm mà Chúa nói ở đây có nghĩa là phép rửa tội. Một khi tội lỗi đã được tầy sạch thì người đó sẽ có lòng khiêm nhường, có tinh thần phục vụ và yêu thương cho đến chết.

Hóa ra cũng một người, khi thánh thiện thì gống Chúa Giêsu, khi tội lỗi thì giống Giuđa.

 

Thứ Năm

(Xh 12,1-14; 1Cr 11,23-26; Ga 13,1-15)

Sách Tin Mừng thánh Gioan không tường thuật lại việc thiết lập bí tích Thánh Thể. Thánh Gioan theo một lịch khác với các sách Tin Mừng Nhất lãm. Ngài đặt lễ Vượt Qua vào chiều thứ sáu, sau việc Chúa chết. Bữa tiệc cuối cùng Chúa dùng với các môn đệ, theo Nhất lãm, là bữa tiệc Vượt Qua; song theo thánh Gioan chỉ là bữa tiệc chia ly, dầu bầu khí là lễ Vượt Qua.

Thánh Gioan kể lại câu chuyện không có trong các sách Tin Mừng khác : đó là việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Lời dẫn đầu thực là quan trọng : thánh Gioan dùng làm lời dẫn nhập cho cả chương cuối của tập sách. Thánh Gioan viết vắn tắt một vài lời : “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian, mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Đó là lời loan báo tử nạn.

Giọng điệu long trọng suốt cả những dòng chữ sau đó, vì thánh sử muốn làm nổi bật sự đối chọi giữa sự cao cả của Chúa Kitô khi trở về với Chúa Cha để trở thành Chúa của mọi sự và cử chỉ hạ mình lạ thường mà Chúa sắp thực hiện.

Cử chỉ có một không hai có tính cách tiên tri, vì các ngôn sứ dùng những cử chỉ mắt thấy tai nghe để diễn tả sứ điệp. Theo cách biểu tượng, Chúa Giêsu sắp sửa bày tỏ ý nghĩa Người ban khi chết. Người ta hiểu rằng tác gỉa sách Tin Mừng thứ tư lưu giữ cử chỉ này, một cử chỉ giầu dấu hiệu.

Một trật tự mới : Một trong ý nghĩa đầu tiên Chúa Giêsu ban khi chết là ý nghĩa của một tạo dựng mới. Sự hy sinh của Người sắp khai mở một sáng tạo mới, thiết lập một trật tự mới, ở đó các giá trị bị đảo lộn, các thứ bậc mang một ý nghĩa khác : không bị bãi bỏ, nhưng sắp đặt lại để phục vụ : ý nghĩa của bác ái. Thế giới mới sẽ là thế giới của Tình yêu, của tình yêu nhau, của những cử chỉ thường tình nâng đỡ nhau (sau khi đã làm gương, Chúa Giêsu đã cắt nghĩa).

Trong cuộc tạo dựng một nhân loại mới mà Chúa Giêsu sắp tái tạo bằng sự hy sinh, người ta khám phá ra, như khởi đầu, sự hiện diện của Satan; Satan đã xâm chiếm tâm hồn của Giuđa (13,2). Trong cảnh rửa chân, có một hậu cảnh bi thương mà thánh sử đã không ghi lại. Có lẽ, chiều hôm đó, ông Giuđa đã tách mình ra khỏi một ông thầy đã có khả năng hạ mình xuống thấp như thế.

Dấu hiệu của một đầy tớ : “Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng” (13,4). Người đã mặc trang phục của một nô lệ.

Việc này như muốn căn dặn hàng lãnh đạo tôn giáo rằng người ta thường né tránh cảnh nô lệ của Israel thuở ban đầu, một công việc nặng nhọc và hèn hạ như “cởi giầy hay rửa chân cho ông chủ “ (Lv 25,39-40).

Chúa Giêsu là Thiên Chúa, “Người đến từ Thiên Chúa và trở về với Thiên Chúa”, bằng lòng hoàn thành công việc của một tên thấp hơn cả nô lệ : “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,27).

Chúa Giêsu hiện diện như một đầy tớ. Phải chăng là để cho các môn đệ nhớ đến những bản văn của Isaia và về số phận thương đau của người Tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa ? Phải chăng để các môn đệ hiểu rằng việc hạ mình này là khởi đầu của những việc hạ mình khác ?

Cõi lòng trong sạch : Trong một đất nước mà thường người ta đi chân không hay đi dép, thì dấu hiệu của việc đón tiếp thân tình đối với vị khách đến nhà là cho một nô lệ rửa chân cho ông, để ông không còn bụi bặm bám trên đường đi.

Chúa Giêsu làm công việc này giữa bữa tiệc. Qua đó cho thấy rằng Người muốn trao ban một ý nghĩa khác khi rửa những dơ bẩn phần xác. Người nói rõ ràng với thánh Phêrô : “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13,8). Người rửa chân để cõi lòng được trong sạch, một sự trong sạch mà con người chỉ có thể nhận được bởi chính Chúa, lòng trong sạch đến từ Thiên Chúa, Thiên Chúa có sáng kiến trước. Sự trong sạch này là hoa qủa của việc Chúa hy sinh. Người mang lại sự trong sạch cho loài người, khi Người lấy máu mình rửa tội lỗi của nhân loại. Về sau thánh Phêrô mới hiểu. Đó là ý nghĩa Chúa Giêsu muốn trao ban cho các môn đệ khi Người chết.

Dấu hiệu của việc sai đi : Với các môn đệ của mình, những người lo toan tìm chỗ nhất và muốn biết ai là người lớn nhất trong họ, thì Chúa Giêsu đã ban cho các ông bài học khiêm hạ này.

Nhưng đồng thời, khi tự hạ trước mặt các ông, Chúa Giêsu còn muốn làm cho các ông cảm nhận được phẩm giá của các ông, làm cho các ông hiểu được nhiệm vụ cao cả đang chờ đợi nơi các ông : Chúa Giêsu rửa chân cho những người sắp trở thành những người đem Lời của Người, những người sắp đi đó đây để gieo vãi Tin Mừng : các ông là những sứ giả của Người.

Làm sao không nhớ đến bản văn của ngôn sứ Isaia, nơi  từ “Tin Mừng” xuất hiện lần đầu tiên : “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Xion rằng : ‘Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị’” (52,7).

Thánh Phaolô, trong thư Rôma, khi nhắc lại vấn đề loan truyền Tin Mừng, đã lấy lại kiểu nói của ngôn sứ (10,15).

Dấu hiệu của lễ Vượt Qua : Cuối cùng việc rửa chân được đặt trong bầu khí Vượt Qua. Dĩ nhiên, trong sách Tin Mừng thứ tư, bữa tiệc ly không được trình bày như là lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, bầu khí của chiều hôm ấy rõ ràng là lễ Vượt Qua. Ngay từ đầu thánh sử đã viết : “Trước lễ Vượt Qua” (13,1), trong khi giờ đã đến với Chúa Giêsu “giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha” (13,1). “Vượt Qua” có nghĩa là sự vượt qua. Đó chính là “Lễ Vượt Qua”của Chúa mà Chúa Giêsu cử hành.

Đàng khác, ý nghĩa của câu chuyện này có tính cách mặc khải ; trong bữa tiệc, chủ gia đình làm những cử chỉ gợi nhớ cho người đồng bàn về những gì họ hỏi và trả lời để cắt nghĩa. Việc này đặc biệt nhắc lại diễn tiến của Lễ Vượt Qua của người Do thái.

Song sâu xa hơn, bối cảnh đằng sau là Phép Thánh Thể : mặc dầu không nhắc lại việc thiết lập, nhưng cử chỉ của Chúa Giêsu nói lên ý nghĩa thâm sâu của bí tích là bí tích của một Tình Yêu năng động, là qùa tặng cho con người. Nơi Thánh Thể, Chúa Giêsu vừa là gương mẫu vừa là nguồn mạch.

 

Thứ Sáu

(Is 52,13-53,12; Dt 4,14;5,9; Ga 18,1-19,42)

Bài tường thuật thương khó theo thánh Gioan khác với các sách Phúc Âm Nhất Lãm. Đây là những khác biệt :

Thánh Gioan không tường thuật cảnh lo buồn ở vườn Cây Dầu. Trước đó một chút, thánh sử đã nhắc đến một biến cố Chúa Giêsu xao xuyến khi thấy những người Hi Lạp đến gặp mình, mà đã được đọc trong chúa nhật thứ V Mùa Chay tuần trước.

 

Chúa Giêsu tự nộp mình (18,1-3) : ông Giuđa, kẻ phản bội đi dầu toán lính. Chúa Giêsu tiến ra đứng trước mặt họ, chẳng đợi cái hôn chỉ điểm của Giuđa. Trước đó chẳng ai có thể bắt được Người : những người nhiệt thành muốn tôn Người làm vua (Ga 6,15), các thượng tế và Pharisêu sai lính đến bắt vào dịp lễ Lều (7,36.44-45), những người Pharisêu khi nghe Chúa ở trong Đền thờ (8,20), những người Do thái muốn ném đá (8,39; 11,39). Chỉ vì “Giờ của Người chưa đến”. Nay giờ đã đến. Chúa Giêsu chấp nhận, như trong nghi thức thánh hiến Đền thờ nhắc lại : “Người tự do đi vào cuộc thương khó”.

Chính tôi (4-6): – Các ngươi tìm ai ?  – Tìm Giêsu Nadarét. – Chính tôi !  Kiểu nói “tôi”, “tôi là” mà Chúa Giêsu dùng, thường có một thuộc từ đi theo, để nói lên tính siêu việt của bản thân và sứ vụ của Người. “Chính tôi là đường, là sự thật và là sự sống”, “chính tôi là mục tử nhân lành”, “chính tôi là cây nho đích thực”… Đôi khi Chúa Giêsu còn dùng kiểu nói tuyệt đối : “Trước khi có ông Abraham, tôi hằng hữu” (Ga 8,38). Đó là kiểu nói Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê (Xh 3,14). Chúa Giêsu không thay thế Chúa Cha, nhưng là tham gia vào thiên tính của Chúa Cha : “Cha tôi và tôi là một” (10,30). Khi nghe Danh Thiên Chúa, các kẻ thù lùi ra và ngã xuống đất. Kẻ chiến bại lại là kẻ chiến thắng.

Chúa cứu sống các môn đệ (7-9) : Chúa Giêsu tự nộp mình. Người chỉ muốn một mình người thôi. “Hãy để những kẻ này ra đi”. Người không dùng từ “môn đệ” để chúng khỏi bắt các ông. Người chỉ giơ tay, chúng phải vâng nghe. Chúa Giêsu là Đấng cứu thoát.

Tai bị chém (10-11) : Trong một cử chỉ thiếu khôn ngoan, có ý bảo vệ thầy mình, thánh Phêrô đã tuốt gươm chém tai đầy tớ của thượng tế. Cả bốn sách Tin Mừng đều kể câu chuyện này, nhưng chỉ có thánh Gioan cho biết thánh Phêrô là tác giả của hành động này và cho biết tên người đầy tớ là Malcus. Người ta nghĩ người đầy tớ này không phải là một người vô danh tiểu tốt, song là một đại diện đặc biệt của thượng tế có nhiệm vụ chỉ huy cuộc vây bắt này. Thánh Phêrô đã không lầm mà đi tìm một tên lính. Tai phải bị chém biểu thị một vết thương ô nhục. Chúa Giêsu đã can thiệp bằng cách nói với thánh Phêrô một lời, thay vì nói ở vườn Cây Dầu thì thánh Gioan đặt ở lúc này : “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống” (18,11). Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu rằng tất cả mọi chống cự đều vô ích, vì đó là ý của Chúa Cha mà Người phải chu toàn.

Chúa Giêsu bị trói (12) : theo thánh Gioan, Chúa Giêsu bị trói ngay lúc bị bắt. Còn theo thánh Matthêu và Maccô thì khi giải cho Philatô mới bị trói. Thánh Luca thì không nói gì.

Chúa Giêsu bị điệu đến ông Khan-na (13-23) : chỉ có thánh Gioan kể lại việc này. Ông Khanna là cựu thượng tế và là bố vợ của Caipha. Ông là thượng tế từ năm 6-15. Một trong những con trai của ông kế vị, nhưng chẳng được bao lâu (15-18). Tiếp đến là ông Caipha, con rể của ông, làm thượng tế cho tới năm 37. Rồi đến 4 con trai khác và một con trai của người cháu. Vì gia đình trị, nên ông có nhiều nhân chứng. Ông vừa có quyền về tôn giáo, vừa về chính trị và giàu có. Vua Hêrôđê Cả đã ghen tương về ảnh hưởng của các tư tế. Ông đã cho ám sát và gây nhiều tội ác với các gia đình tư tế.

Dường như ông Caipha ra lệnh điệu Chúa Giêsu đến nhà bố vợ của mình trước hết, để tỏ ý trọng vọng và vì uy tín của ông Khanna.

Chúa Giêsu bị tra hỏi về giáo thuyết. Chúa Giêsu đã kêu gọi những chứng nhân đích thực, những người có thể biến cuộc tranh luận này thành một vụ án thật sự, chứ không chỉ là một cuộc tranh luận đùa cợt của những con người tò mò. Chúa Giêsu kêu gọi “những người đã tụ tập ở các hội đường hay Đền thờ đã nghe Người, mọi người đã nghe sứ điệp của Người, làm nhân chứng cho Lịch sử.

Phải chăng Phúc Âm thứ tư hoàn toàn là một biến cố trong đó Chúa Giêsu phải đối mặt với những con người phải nhận mình là theo hay chống lại Người.

Chúa Giêsu trước tòa án ông Philatô (24-40) : thánh Gioan đã không tường thuật lại cuộc hội họp ở Thượng Hội Đồng, song ngài đã kể dài vụ án ở toà án Philatô. Với những yếu tố trình bày, thánh nhân đã làm nổi bật hoàn cảnh bi đát và nghịch lý. Hai quyền lực đối mặt nhau : một bên là Philatô, tức là Đế quốc Rôma, bên kia là Chúa Giêsu đến tữ trời cao và không có Người, Philatô chẳng là gì; và hai công lý : công lý lưỡng lự và bất công của quan toàn quyền Rôma và công lý của Chúa Giêsu đọc được lương tâm con người và xét đoán cả vị quan tòa : “Kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (11).

Sau cùng là sự thật và dối trá đối mặt nhau. Chúa Giêsu nhận mình là phát ngôn viên của sự thật, là người mặc khải sự thật. Người tuyên bố nhiều lần : người là sự thật, sự thật đến từ Thiên Chúa.

Ở bên ngoài, những người Do thái tố cáo Người bằng cả sức mạnh của gian dối : “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan” (30), “Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xêda. Ai xưng mình là vua thì chống lại Xêda” (19,12).

Sự dối trá lên tới tột điểm : “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xêda” (19,15). Nhưng trong lòng họ thì khác. Họ chỉ nuôi hy vọng : có một người trong họ nổi dậy giải thoát khỏi ách Rôma. Nếu Chúa Giêsu là một người phản loạn, một người cách mạng, thì không đời nào họ nộp Người cho Philatô !

Nhưng trước khi xảy ra cuộc tranh luận, thánh sử đã cho thấy sự giả dối của họ : “Họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được” (18,28); trong khi đó Chúa Giêsu vào nhà của người không cắt bì đã bị ô uế. Như vậy người Do thái ác độc thì lại cho mình là vô tội !

 Suốt thảm kịch, Chúa vẫn luôn bình tĩnh. Trái lại, Philatô là con mồi của lo lắng, mất bình tĩnh. Thánh sử kể 3 lần quan tổng trấn đi ra đi vào : 3 lần đi ra hỏi ý kiến của Thượng Hội Đồng và dân chúng và 3 lần đi vào tra hỏi để biết tông tích nhiệm mầu của Chúa Giêsu.

Vấn đề chính của cuộc tranh luận, theo các sách Tin Mừng, là vấn đề chính trị : Chúa Giêu có phải là vua không ? Ông Philatô không thể kết án Chúa, nếu câu trả lời không tích cực. Chúa Giêsu giải nghĩa : “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (18,36). Một vương quốc như thế không thể giống chút gì đế quốc Rôma. Ông Philatô đã an tâm, song đám đông quấy động không nghe theo và đòi kết án Chúa Giêsu và tha Baraba.

Đánh đòn (19,1-13) : theo thánh Gioan, Philatô cho đánh đòn Chúa Giêsu, để có kết qủa khuyên can và làm cho người Do thái thương hại, Đánh đòn, đội mạo gai, mặc áo đỏ, lính tráng nhạo báng không phải diễn ra sau khi đã bị kết án như trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, song khi còn đang bị xét xử. Đó là một trong những nét khác biệt nổi bật.

Lý do làm vua là lý do đầu tiên của cuộc tranh luận, khiến đưa đến cảnh một ông vua bị nhạo báng bằng việc đội mạo gai làm cho máu chảy xuống mặt, và bằng việc mặc áo đỏ là dấu hiệu của chiến thắng.

Ông Philatô nói : “Đây là người” (19,5). Thánh Gioan là sử gia của việc nhập thể. Ngài không ngần ngại nêu ra cảnh rất hiện thực này, vì nó làm chứng Thiên Chúa làm người chấp nhận sự hạ mình tột độ. Nhưng bằng con đường đau thương, Con Người đạt tới vinh quang.

Tuy nhiên, các lãnh đạo hàng tư tế (thánh Gioan nêu họ ra một lần nữa) không sẵn lòng thương hại : “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá !” (19,6).Và vì lý do muốn làm vua đã không đủ làm lay động quan tổng trấn, người Do thái đưa ra một sự tố cáo khác : “Chúng tôi có Lề Luật, và chiếu theo Lề Luật thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa” (19,7). Lần này ông Philatô dao động. Ông bị dao động về một sự sợ hãi tôn giáo. Ông hỏi Chúa Giêsu : “Ông từ đâu mà đến” ? Chúa Giêsu đã không trả lời. Ông Philaô “từ đó tìm cách tha Người” (19,12).

Ông tổng trấn cố gắng đưa ra một sáng kiến khác để khuyên can. Ông đưa Chúa Giêsu “ngồi trên tòa, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Hípri là Gáp-ba-tha” (19,13). Ông nói : “Đây là vua các ngươi” (19,14). Ông chỉ nhận được những tiếng hô lớn : “Đem đi ! Đem nó đi ! Đóng đinh nó vào thập giá” (19,15). Và cả một lời đe dọa khích động đến Hoàng đế, khiến ông Philatô phải nhượng bộ, vì sợ bị tâu về Rôma và bị kết án là yếu đuối.

Ngày áp lễ Vượt Qua (19,14-24) : Đó là thứ sáu, ngày áp lễ Vượt Qua, quãng giữa trưa. Một chỉ dẫn thật qúi hóa. Trong sách Tin Mừng thánh Gioan, lễ Vượt Qua chính thức bắt đầu vào ngay chiều Chúa Giêsu chết (ngày được bắt đầu khi hoàng hôn).

Quãng giữa trưa Chúa Giêsu lên đồi Canvê. Người tắt thở vào 3 giờ, giờ các con chiên Vượt Qua bị giết nơi Đền Thờ. Ngài là Con chiên bị sát tế của lễ Vượt Qua mới.

Đóng đinh : Trong bản văn đóng đinh và Chúa Giêsu chết có ba điểm chỉ có nơi thánh Gioan :

  • Chi tiết về chiếc áo dài không đường khâu (23)
  • Những lời Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ (25-27)

      –  Lưỡi đòng đâm (31-37)

Áo dài không đường khâu : theo Luật, các áo của tử tội được phân phát cho các đao phủ. Có 4 đao phủ. Chúng chia làm 4 phần. “Họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới” (19,23).

Thánh Gioan đã đề cập đến sự kiện này, vì hình dáng của chiếc áo dài không có đường khâu là một việc bắt buộc phải làm trong phụng vụ đối với một thượng tế. Ông phải mang áo dài không đường khâu, khi cử hành lễ Xá tội cho toàn dân. Ngoài thư Do thái, đây là đoạn văn duy nhất trong Tân Ước nối kết Chúa Giêsu với chức thượng tế của Cựu Ước.

Chúa Giêsu và Đức Mẹ (19,25-27) : Trước khi tắt thở, Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ : “Thưa Bà, đây là con của Bà” (26). Những từ lạ tai. Như ở Cana, Chúa Giêsu nói với mẹ Người : “Bà…”. Rồi quay về phía môn đệ nói : “Đây là mẹ anh”(27).

Chúa Giêsu trao phó mẹ Người cho thánh Gioan. Ý định của Chúa Giêsu vượt qúa các nhân vật : hướng về Giáo hội. Nếu Người nói với mẹ Người : “” như ở Cana, chính vì Người nhắc lại ơn gọi vượt qúa tình mẫu tử của Đức Maria. Thánh Gioan là môn đệ duy nhất trung thành cho đến cùng : ông là tín hữu, là Giáo hội. Chính nơi tình mẹ thiêng liêng bao la mà Đức Maria được trao phó. Vì vậy, Chúa Giêsu bắt đầu trao cho mẹ mình một nhiệm vụ. Chỉ trong tình thảo hiếu, Người mới trao mẹ Người cho thánh Gioan.  Phải chăng Giáo hội coi Đức Maria là mẹ của mình ?

Lưỡi đòng đâm thâu (19,28-42) : thánh Gioan long trọng làm chứng : ngài đã thấy nước và máu chảy ra từ cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thâu. Tác giả đã không chú tâm đến phương diện vật lý, cho bằng ý nghĩa thần học. Qùa tặng cuối cùng là một sứ điệp.

Nước biểu tượng sự sống. Máu cũng vậy. Theo quan niệm thời đó, máu là chỗ của nguyên lý sự sống. Như vậy, Chúa Giêsu chết để ban sự sống. Sự sống thần linh trào ra qua các bí tích, nhất là bí tích rửa tội và Thánh Thể. Chắc chắn thánh Gioan đã nghĩ đến biểu tượng sâu xa này. Trong thư thứ nhất, thánh Gioan đã ghi “ba nhân chứng” : máu, nước và Thánh Thần. Đàng khác, nước cũng là biểu tượng của Thánh Thần và của sự sống thần linh.

Các lính tráng đã đâm lưỡi đòng vào cạnh sườn của Chúa Kitô, để xác minh là Chúa đã chết. Chúng đã không đập gẫy xương của Chúa. Thánh Gioan nhắc lại bản văn Kinh Thánh áp dụng cho con chiên của lễ Vượt Qua : “Chúng cũng không làm gẫy một xương nào của chiên Vượt Qua” (Ds 9,12).

Chúa Giêsu chính là chiên Vượt Qua. Chúa ở trong qùa tặng Thánh Thể. Thánh Thể khởi đầu cho việc hiến tế.

 

Thứ Bảy

 

Trong năm, chỉ có Thứ bảy Tuần Thánh mới là ngày không cử hành phụng vụ. Giáo hội chiêm ngắm sự chết của Chúa. Giáo hội không cử hành bí tích Thánh Thể, vì bí tích nói lên sự hiện diện của Chúa.

Đức Maria là gương mẫu cho sự yên lặng của Giáo hội, gương mẫu vừa của khổ đau vừa của hy vọng. Từ thế kỷ thứ X, để thánh hiến một sự sùng kính bình dân từ lâu đời, Giáo hội đã dâng ngày thứ bảy cho Đức Mẹ.

Từ thế kỷ thứ XIII, Giáo hội đã trung thành giữ ngày Thứ bảy Tuần Thánh không có phụng vụ. Vọng phục sinh chỉ cử hành vào đêm thứ bảy rạng chúa nhật. Lễ rửa tội cho tân tòng được xen vào lễ vọng. Họ là những người bắt đầu một đời sống mới vào lúc cử hành việc Chúa Kitô phục sinh.

Có thời lễ Vọng được cử hành vào sáng thứ bảy. Đến năm 1954, Đức Piô XII đã đem trở lại chỗ cũ và lấy lại ý nghĩa của ngày lễ.

Những bài đọc trong lễ Vọng với chủ đề lớn, sâu đậm Thánh Kinh : đó là mối liên hệ giữa tạo thành và tha thứ. Chỉ một mình Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, đã tạo dựng nên con người tốt đẹp mới có thể tái tạo con người. Bằng sự tha thứ, Người đã tái sinh con người. Mầu nhiệm Phục sinh cho chúng biết con đường Thiên Chúa đã chọn để tái sinh con người : đó là sự chết và sống lại của Chúa Kitô. Tín hữu đi vào mầu nhiệm cứu rỗi này qua bí tích Thánh Tẩy.

Vì thế các bản văn được chọn đọc trước hết nhắc đến việc tạo dựng, rồi đến vài chặng đường hay là những hình ảnh tiên báo lịch sử cứu rỗi.

Đêm Vọng Phục Sinh

Lc 24,1-12

3-3-2010

Chả có cái chết nào nhục nhã cho bằng cái chết trên thập giá. Người Rôma trông thấy phải rùng mình ghê sợ. Thi sĩ Cicero, người Rôma, nói : “Đó là cái chết dữ dằn và kinh khiếp nhất”. Thi sĩ Tacito, cũng người Rôma, thì bảo : “Đó là cái chết bỉ ổi nhất.”

Cái chết trên thập giá bắt nguồn từ phong tục của người Ba Tư ngày xưa. Họ coi mặt đất là thánh thiêng. Những kẻ làm điều ác không đáng được chôn dưới đất. Xác của tội nhân làm ô uế đất đai, làm dơ bẩn đất thánh. Họ phải bị treo lên và để cho diều hâu, cho chim kền kền rúc rỉa. Người Rôma đã bắt chước phong tục này, nhưng chỉ thực hiện ở các nước thuộc địa và dành cho người nô lệ.

Chúa Giêsu bị treo trên thập giá. Chúa Giêsu phải chịu một cái chết nhuốc nha. Chúa Giêsu bị liệt vào hạng tội nhân, vào hạng nô lệ đê hèn.

Vì thế, chẳng lấy làm lạ : kẻ thù thì chế nhạo, khinh bỉ; người thân thì buồn sầu, thất vọng; các môn đệ ông thì bỏ trốn, ông thì bội phản… Chẳng còn ai đoái hoài, chẳng còn ai dám ra mộ ngó ngàng. Có chăng là mấy mụ đàn bà ngớ ngẩn.

Bài TM đêm nay, thánh Luca kể : “Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả” (Lc 24,1-3).

Chiều thứ sáu, họ vội vàng tẩn liệm Chúa, vì trời sắp sửa bước sang ngày thứ bảy, ngày nghỉ và là ngày đại lễ Vượt Qua. Họ ngóng đợi cho ngày thứ bảy chóng qua, mong đợi ngày thứ nhất mau đến, để họ đem dầu thơm tiếp tục tẩn liệm Chúa. Nhưng khi họ đi vào, họ không thấy xác Chúa nữa, xác Chúa mất đâu rồi.

Theo tường thuật của thánh Mt, thì các nhà lãnh đạo phao vu là các môn đệ đã ăn cắp xác Chúa. Nếu các môn đệ ăn cắp, thì làm sao còn khăn liệm trong mộ. Đã ăn cắp thì phải ôm cả xác, cả khăn liệm mà chạy, chứ làm gì có giờ để cởi bỏ khăn liệm ra khỏi xác Chúa mà để lại trong mộ.

Thật ra, ở đời có mấy người tin người chết sống lại. Chính các bà ra mộ, không thấy xác Chúa, cũng không tin Chúa sống lại. Thiên thần phải hiện ra bảo các bà : “Sao các bà lại tìm Người Sống giữa kẻ chết ? Người không còn ở đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi” (24,5).

Nghe thiên thần nói, các bà cũng vẫn chưa tin, nên các thiên thần phải bảo : “Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại” (24,7).

Có lẽ chúng ta cũng khó tin người chết sống lại. Vì thế, chúng ta tin là nhờ Lời Chúa dạy, nhờ giáo huấn của Hội Thánh.

Lời Chúa và giáo huấn mới giúp chúng ta tin sự sống lại. Không yêu mến Lới Chúa và giáo lý chúng ta cũng khó tin sự sống lại.

Do đó trong mùa phục sinh này chúng ta luôn được nhắc nhở là “Theo Kinh Thánh Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”  (Ga 20,9).

 

Đêm Vọng Phục Sinh

Gò Vấp 30-3-2013

Có thật Chúa Giêsu sống lại không ?

Trên đời có ai chết mà sống lại đâu.

Người ta ướp xác để làm ra vẻ người chết còn sống mà thôi.

      Thế mà chúng ta, người Công giáo, lại tin Chúa Giêsu sống lại.

      Chẳng những tin, mà còn mừng lễ.

Lễ Chúa sống lại là lễ lớn nhất trong các lễ.

Thật ra dễ gì mà tin.

Theo BTM thánh lễ hôm nay, thánh Luca kể : ba bà ra mộ gặp ba sự lạ :

– Sự lạ I là : Tảng đá lấp cửa mộ đã được ai đó lăn ra (Lc 24,2).

– Sự lạ II là : Hai thiên thần hiện ra (Lc 24,4)

– Sự lạ III là : Hai thiên thần bảo tin Chúa đã sống lại rồi.

Ba bà chạy về báo tin cho các tông đồ. Các tông đồ không tin, cho là “chuyện vớ vẩn” (Lc 24,11).

Riêng thánh Phêrô một mình chạy ra mộ để kiểm chứng. Thấy tấm khăn liệm, nhưng không thấy xác Chúa, ông chỉ ngạc nhiên, chứ chưa tin (Lc 24,12).

Sai hai thiên thần đến báo tin mà không tin, thì đích thân Chúa hiện ra. Chúa không bỏ, Chúa vẫn thương. Chúa thương thế đó.

Thánh Luca kể hai chuyện Chúa hiện ra :

– Chuyện I : Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau

– Chuyện II : Chúa hiện ra, trước khi Chúa lên trời.

Hai lần hiện ra này, Chúa không chỉ nghĩ đến các tông đồ, chỉ muốn các tông đồ được gặp Chúa sống lại. Chúa còn nghĩ đến chúng ta, Chúa cũng muốn chúng ta được gặp Chúa sống lại.

Vì thế, cả hai lần Chúa đều nhắc lại những lời Kinh Thánh đã nói về Chúa sống lại. Và Chúa còn dùng bữa với các ông. Khi đó lòng các ông bùng cháy (Lc 24,32), và mắt các ông mở ra mà nhận ra Chúa (Lc 24,31).

Qua hai câu chuyện, Chúa muốn nói rằng : chúng ta sẽ gặp được Chúa sống lại, khi chúng ta tham dự thánh lễ. Trong thánh lễ có Lời Chúa, có Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể là hai cơ hội tuyệt vời, để chúng ta được gặp Chúa sống lại.

Nhưng, tin Chúa sống lại có ích lợi gì cho cuộc đời chúng ta ?

Trong phòng hòa nhạc tên là Maigruge, ở thủ đô Fribourg nước Bỉ, có một tượng chịu nạn rất lạ đời, không giống như các tượng ở nhà thờ hay ở tư gia. Chúa Giêsu nằm trên thánh giá: đôi mắt Chúa mở thật to, miệng Chúa cười thật tươi. Đó là tác phẩm của một nghệ sĩ vô danh hồi thế kỷ XVI.

Khi chiêm ngắm pho tượng, cha Ducarroz đã viết những dòng chữ sau đây : “Tôi thích cái miệng cười của Chúa bị đóng đinh. Nụ cười đó không làm cho Chúa giả đò đau khổ, giả đò chết, song diễn tả một niềm vui vô biên, mà Chúa Giêsu ban cho loài người, dù loài người đã giết Chúa.

Niềm vui vô biên Chúa ban cho loài người, khi Chúa nằm trên thánh giá lại còn được người nghệ sĩ tài ba diễn tả qua một pho tượng đứng dưới thánh giá. Thay vì Đức Mẹ và thánh Gioan như các nghệ sĩ khác thường vẽ, thường tạc, ông đã tạc pho tượng Ađam, ông tổ của loài người. Ông Ađam, thân hình tiều tụy, nhưng đôi mắt ông mở to, đôi mắt ông sáng như hai ngọn đèn. Ông ngước nhìn lên thánh giá, và miệng ông cũng cười thật tươi.

Chúa ở trên thánh giá cười,

để ông Adam đứng dưới thánh giá được cười.

Chúa cười, để loài người tội lỗi được cười.

Chúa sống lại, để loài người phải chết được sống.

Tội lỗi đã được tha. Sự chết đã thất bại,

Sự sống đã chiến thắng.

Chúa đã sống lại thật rồi. Halleluia. Amen

Linh mục Nguyễn Trung Thành