Chúa Nhật XIII Thường Niên – Năm A


Chúa Nhật XIII Thường Niên – Năm A

28-6-2020

CHẦU THÁNH THỂ

Giáo xứ Hà Lam

GIÁO HUẤN SỐ 30

ĐỨC MARIA, NGƯỜI PHỤ NỮ TRẺ Ở NADARÉT (tt)

Không lẩn tránh cũng không ảo tưởng. Maria sát cánh bên đau khổ của Con mình, ngài nâng đỡ con bằng ánh mắt nhìn và che chở con bằng trái tim. Ngài chia sẻ đau khổ của con, nhưng không bị đè bẹp bởi đau khổ ấy. Maria là người phụ nữ mạnh mẽ thưa tiếng “xin vâng”, là người nâng đỡ và đồng hành, bao bọc và chở che. Ngài là người canh giữ xuất sắc niềm hy vọng… Chúng ta học từ ngài để biết nói “vâng” với sự kiên nhẫn bất khuất và năng lực sáng tạo của những ai kiên cường sẵn sàng bắt đầu lại. Maria là một phụ nữ trẻ với tâm hồn tràn ngập niềm vui (x.Lc 1.47), đôi mắt ngài… phản chiếu ánh sáng của Chúa Thánh Thần – nhìn đời sống với đức tin và lưu giữ mọi sự trong trái tim trẻ trung của ngài (x. Lc 2,19.51). Ngài năng động, sẵn sàng mau mắn lên đường khi biết rằng người chị họ cần đến mình. Ngài không loay hoay với các kế hoạch riêng của mình, nhưng đi “vội vã” đến miền đồi núi ấy (Lc 1,39) (Tông Huấn Đức Kitô Hằng Sống, số 45&46).

 ————————————–

Chúa Nhật XIII Thường Niên – Năm A

(2V 4,8-11.14-16a; Rm 6,3-4.8-11; Mt 10,37-42)

Trong tập sách “Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt”, cha Đỗ Quang Chính đặt câu hỏi: “Ai trong vương tộc nhà Nguyễn là người đầu tiên theo đạo Đức Chúa Trời?” (trang 70). Trả lời được câu hỏi này, cũng là câu trả lời cho biết ai là người đầu tiên trong vương tộc nhà Nguyễn ở Quảng Nam có đạo?

Cha Đỗ Quang Chính trả lời: “Phải chăng là bà lớn Gioanna, được rửa tội khoảng năm 1620, mà người ta cho rằng bà là chị của chúa Nguyễn Phước Nguyên. Bà lớn Gioanna không ở kinh đô Đàng Trong, nhưng ở tại Thanh Chiêm (Phước Kiều). Nhà bà là nơi cha Pina tập họp dân chúng để dạy giáo lý. Bà hăng say nhiệt tình với đạo, và bà nói là ‘đạo Hoa Lang hơn hẳn các đạo trong nước’. Chính bà khuyên nhủ một người anh của bà lúc đó ở Hội An, đã 74 tuổi, chịu phép Thánh tẩy, do cha Pina đã đến tận nhà ông dạy giáo lý và rửa tội khoảng cuối năm 1620, sau đó cha rửa tội cho trên 30 người đã đến học giáo lý với cha cũng tại nhà ông anh của bà lớn Gioanna” (Sđd, trang 70-71).

Trang 21 của cuốn sách kể trên, cha Đỗ Quang Chính viết : “Các tu sĩ đến Cacciam (Kẻ Chàm), tức Thanh Chiêm, cũng gọi là Quảng Nam dinh, cách Hội An chừng 7 km về phía Tây, nơi quan trấn thủ Nguyễn Phước Kỳ đặt bản doanh, cai trị suốt từ đèo Ải Vân xuống tận Qui Nhơn. Tại Quảng Nam dinh, quan trấn thủ cũng cho phép các Giêsu hữu (dòng Tên) làm một nhà nguyện và nhà ở, nhờ sự giúp đỡ của một bà rất quí phái. Bà này về sau được chịu phép rửa, thánh hiệu Gioanna. Chính trong nhà riêng, bà cũng lập “nhiều bàn thờ” và hằng cầu khẩn với “một Đức Chúa Trời đất”.

Cha Đỗ Quang Chính kể lại lời cha Gaspar Luis như sau: “Tại cư sở Hội An có một cha đến ‘triều đình’ (theo chúng tôi hiểu là Thanh Chiêm, tức thủ phủ của thế tử Nguyễn Phước Kỳ) dạy giáo lý tại nhà bà Gioanna ‘bằng tiếng bản xứ này’. Những người nghe cha giảng, nói là, bây giờ họ bắt đầu  trở thành người thuộc về Đức Kirixitô và hiểu biết  được sự thánh thiện của đạo này. Cha ấy là ai ? Chúng tôi có lý mà cho rằng đích thực Francisco de Pina, Bởi vì hai thầy người Nhật và cha Marques chưa biết tiếng Viêt. Đàng khác trước khi làm phép rửa tội cho bà Gioanna, thì nhờ nói khá tiếng Việt và hiểu biết về thiên văn, cha Pina đã giải thích rành rẽ cho một Vnque [Ongue, Ông Nghè} (tức là một vị tiến sĩ?) để trả lời cho tất cả những thắc mắc của ông về khoa Chiêm tinh. Pina còn nói trước về tháng, ngày, giờ chính xác xảy ra nguyệt thực, làm cho ông nghè này cùng các quan và cả vị trấn thủ Nguyễn Phước Kỳ thán phục, nhất là khi các ông thấy những nhà chiêm tinh trong xứ nói sai” (sđd, trang 39-40).

Cha Đỗ Quang Chính còn cho biết: “Chính Pina chủ động trong việc lập cư sở Thanh Chiêm. Pina viết trong thư năm 1622-1623 cho bề trên ở Áo Môn như sau:” Năm ngoái con đã biên thư cho cha, thưa cha đáng kính, con đã mua hai nhà của mẹ bà Gioanna ở Cacham, mỗi nhà gồm ba gian, một nhà dành cho chúng ta ở, nhà kia làm nhà nguyện. Mục đích của con là cần cái gì đó (nhà) thuộc quyền chúng ta tại một nơi rất quan trọng của Vương quốc này, để chúng ta có thể dâng lễ misa tại đó, và tiếp tục vun trồng cùng phát triển mhóm bổn đạo ở đây {…}. Tại mỗi nhà phải có ít nhất ba {thanh niên} giúp chúng ta công việc trong nhà, và cũng phải dành thời giờ cho những người đó vừa học chữ của họ, vừa học chữ của chúng ta” (sđd, trang 68).

Bà Gioanna còn có lòng quảng đại giúp đỡ các cha bị đuổi, phải ở trên bãi biển. Cha Chính kể: “Vào mùa thu năm đó (1617) thiếu mưa, nông dân Quảng Nam không làm nông được. Theo cha Borri thì các onsaif (ông sãi) liền nhóm họp để tìm cho ra lý do làm phật lòng thần thánh. Theo các onsaif, chính vì các thầy đạo Hoa Lang đến đây giảng dạy một tà giáo, nên Trời, Phật mới giáng họa cho vùng này. Vì thế, dân chúng cùng các onsaij đến trình với trấn thủ Quảng Nam dinh là Nguyễn Phước Kỳ, thế tử của Nguyễn Phước Nguyên. Trấn thủ không tin nhận lý do trên đây, nhưng sợ dân chúng gây rối loạn, nên đành ra lệnh cho các cha tạm rút về Áo Môn, chờ hết nạn hạn hán sẽ trở lại, dù trấn thủ rất qúi trọng các cha

 Tầu buôn Bồ Đào Nha chở các cha vừa ra khơi thì bị gió ngược phải quay lại bờ. Dân chúng ngăn cản không cho các cha vào ở trong nhà tại Cửa Hàn, nhưng phải ở trên bãi biển chịu nóng bức khổ sở. Trong khi ấy, người ta mời được pháp sư nổi tiếng là vị chân tu, làm lễ cầu đảo. Vị pháp sư lên một ngọn núi gần đó, sau khi khấn vái với những nghi thức cầu đảo quen thuộc, ông dậm mạnh chân trên đất ba lần, một lát sau mây mù giăng khắp, nhỏ được một vài giọt mưa, không đủ thấm đất cho dân làm ruộng. Dân chúng bực bội đi phóng hỏa nhà thờ ở Cửa Hàn, làm cho các cha ở bãi biển rơi lệ mà chẳng cách nào cứu chữa được. Không rõ các Giêsu hữu phải sống cơ cực trên bãi biển bao lâu; chỉ biết nhờ có bà Gioanna ở Thanh Chiêm cùng bổn đạo đến thăm hỏi, an ủi, giúp đỡ” (sđd trang 50-51).

Qua câu chuyện, bà Gioanna chẳng những kính Chúa, còn yêu người như Lời Chúa dạy trong thánh lễ hôm nay.

Bài đọc 1: Bài đọc 1 đọc sách Các Vua quyển thứ hai. Bài đọc kể câu chuyện một phụ nữ giầu sang ở Su-nêm, một thành thuộc chi tộc Ít-xa-kha. It-xa-kha là con trai thứ năm do bà Lê-a sinh ra cho ông Gia-cóp (St 30,18). Bà nhà giầu chẳng những đãi cơm cho ngôn sứ Ê-li-sa, mà còn bảo chồng làm một căn phòng trên sân thượng cho ngôn sứ nằm nghỉ. Để trả ơn cho bà, ngôn sứ cầu xin cho bà được con trai (2V 1,16a).

Bài Tin Mừng: Cha Nguyễn Công Đoan bình giải: “Phẩm giá của người được sai đi. Tớ và chủ cũng chung số phận, thì chung vinh dự: ‘Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy’. Ai đón tiếp ngôn sứ thì sẽ được phần thưởng của ngôn sứ’. Điều này gợi nhớ chuyện bà góa ở Xa-rép-ta đón tiếp ngôn sứ Ê-li-a, được có bột và dầu để ăn lâu ngày, lại được ngôn sứ cho đứa con đã chết sống lại (x. 2V 4,8-31), chuyện tương tự với ngôn sứ Ê-li-sa và bà góa ở Su-nêm (x..2V 4,8-31). Ai đón tiếp người công chính… gợi nhớ chuyện ông Lót đón tiếp hai thiên sứ và được cứu khỏi Xơ-đôm (x. St 19).

Người nào cho một môn đệ bé nhỏ nhất, dù một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Chúa, thì Chúa đích thân đứng ra đền ơn như thể chính Chúa đã nhận : Chúa mà đền ơn thì hẳn hơn ngôn sứ … (Tự Đáy Lòng, Tĩng Tâm Vói Sách Tin Mừng Mát-thêu, trang 91).

Bài đọc 2: Bài đọc 2 chúng ta đọc thư thánh Phaolô gửi cho cộng đoàn Rôma. Bài đọc hôm nay nói đến phép rửa. Thánh Phaolô viết: “Thưa anh em, khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người. Vì được dìm vào trong cái chết của Ngưới, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,3-4).

Cha Kevin O’Sullivan viết : “Để hiểu lời thánh Phaolo viết ở trên, chúng ta cần nhớ rằng bí tích Rửa tội thời Giáo hội tiên khởi được dìm trong nước. Người rửa tội dìm cả thân và đầu vào thùng nước. Dìm trong thùng nước là hình ảnh người tân tòng chết cho mình và được an táng trong Đức Kitô. Bước ra khỏi thùng nước biểu tượng sự sống lại với Chúa Kitô trong đời sống mới” . Cha giải nghĩa thêm : “Như Chúa Cha giải thoát Đức Kitô khỏi mồ, và ban cho Người cuộc sống mới, cuộc sống nhân tính vinh hiển đời đời của Ngưới, thì chúng ta nhờ phép rửa cũng sống một đời sống mới” (The Sunday Readings A, trang 261).

Đời sống mới của người Kitô hữu, người Công giáo, chính là kính Chúa yêu người.

Bà góa Sarépta, bà Sunêm và bà Gioanna đã sống dời sống kính Chúa yêu người.

Linh mục Giuse Nguyễn Trung Thành