Chúa Nhật XVII TN – Năm C


CẦU NGUYỆN NHƯ CHÚA GIÊ-SU DẠY

Tuần 17 Thường Niên

(Hội An 24/7/2022)

Thử nín thở một lần, điều gì xảy ra? Những người bị mắc co-vid 19 đã có kinh nghiệm này, cần thở biết bao, vì hơi thở là sự sống. Thánh Piô Năm Dấu Thánh khẳng định: “Cầu nguyện là dưỡng khí của linh hồn chúng ta.” Vì thế, thánh Phaolô khuyên nhủ: “Hãy cầu nguyện không ngừng” (1Th 5,17), nghĩa là không thể là Ki-tô hữu mà không cầu nguyện. Nhưng cầu nguyện thế nào cho đúng? Cách đây hơn 2.000 năm, các môn đệ sau khi thấy Chúa Giê-su cầu nguyện, nên muốn học theo cách cầu nguyện của Chúa và họ đã đến xin Chúa: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện.”

  1. “Lạy Cha” – lời Chúa Giê-su thưa khi cầu nguyện

   Các môn đệ nhận thấy có sự khác biệt giữa lời cầu nguyện của Chúa với lời cầu nguyện của dân tộc họ. Trong Cựu ước, Thiên Chúa cho dân Do Thái biết họ là con của Ngài qua biến cố Thiên Chúa đã đoái thương và giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai-cập. Chính Thiên Chúa đã nhìn nhận Israel là con của Ngài khi nói với Pharaon: “Chính Israel là con của Ta. Ta đã nói với ngươi: Hãy thả con Ta ra để nó đi thờ phượng Ta” (x. Xh 4,22-23). Thế mà những người Do Thái thời Chúa Giê-su chưa biết gọi Thiên Chúa là Cha, thậm chí nổi giận khi nghe Chúa Giê-su nói Thiên Chúa là Cha mình.

Chúa Giê-su không chỉ nói cho mọi người biết Thiên Chúa là Cha của Ngài, mà mỗi khi cầu nguyện, Ngài còn thưa với Thiên Chúa “Cha”-“Abba.” “Abba” là tiếng đầu tiên đứa bé Do Thái thưa với cha của mình. Có lẽ vì trong xã hội hôm nay, nhiều gia đình thiếu vắng người cha hoặc nhiều người cha đã làm mờ tối mối tương quan với con cái, nên nhiều người không cảm nghiệm được lời thưa “lạy Cha”-“Abba” của Chúa Giê-su. Chúa Giê-su dùng lời trìu mến của đứa bé thưa với Cha mình, không chút sợ hãi nhưng đầy tình thương, không e dè nhưng tín thác, không xa lạ những thân thiết với Chúa Cha, bày tỏ mối tương quan thân thiết với Thiên Chúa là Cha đầy lòng yêu thương của Ngài. Đó là lý do Chúa Giê-su luôn thưa lời “lạy Cha”-“Abba” với Chúa Cha trong mọi hoàn cảnh. Chúa Giê-su không bao giờ mất niềm tín thác mật thiết với Chúa Cha và luôn kêu nài Cha với tâm tình của người con thảo hiếu, kể cả khi rơi vào thảm kịch cuộc đời. Trước khi bắt đầu đường thánh giá, Chúa Giê-su đã tín thác vào Chúa Cha bằng lời cầu nguyện tha thiết: “Abba, Cha ơi! Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su là người con thơ bé thưa với cha của mình và chỉ muốn làm theo ý Cha.

  1. “Lạy Cha chúng con” – lời Chúa Giê-su dạy Ki-tô hữu cầu nguyện

Tâm tình của chúng ta khi cầu nguyện dường như thiếu hẳn sự tín thác và thân thiết với Thiên Chúa như Chúa Giê-su. Chúng ta thưa “Lạy Cha chúng con” nhiều lần mỗi khi cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, nhưng ít ai dừng lại một nhịp để sống tâm tình của một người con thưa với Thiên Chúa là Cha của mình và tận hưởng niềm hạnh phúc được gọi Thiên Chúa là Cha. Niềm hạnh phúc được biết, được gọi Thiên Chúa là Cha và được nên con cái của Thiên Chúa là nhờ Chúa Giê-su và nhờ Chúa Thánh Thần. Nhờ ơn cứu độ của Chúa Chúa Giê-su là Con Một yêu dấu của Chúa Cha, chúng ta được làm con Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha. Vì thế, Chúa Giê-su dạy: “Khi các con cầu nguyện hãy nói: “Lạy Cha” (Lc 11,2). Thánh Phaolô giải thích, sở dĩ chúng ta thốt lên được với Thiên Chúa “Lạy Cha”–“Abba” là nhờ Chúa Giê-su phục sinh ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Abba, Cha ơi!” (Gl 4,6). Như vậy, chỉ kết hợp nên một với Chúa Giê-su, chúng ta mới được gọi Thiên Chúa là Cha và khi thưa “Lạy Cha”-“Abba” với Thiên Chúa là chúng ta được ở trong và cùng với Chúa Giê-su cầu nguyện với Chúa Cha.

            Vì thế, khi cầu nguyện và thưa với Thiên Chúa “lạy Cha chúng con,” Ki-tô hữu hạnh phúc vì mình không đơn độc, nhất là trong thời buổi sự cô đơn đang lan nhanh như cơn dịch. Ki-tô hữu biết rằng họ đang cùng với Chúa Giê-su thưa với Chúa Cha “Lạy Cha”-“Abba” và cùng với toàn thể Hội Thánh cầu nguyện với Chúa Cha. Chúa Giê-su dạy thưa “Lạy Cha chúng con,” chứ không dạy thưa “lạy Cha của tôi.” Chỉ một lời thưa như thế mà qui tụ toàn thể thế giới, toàn thể Hội Thánh vào tình yêu vô biên của Chúa Cha và làm đẹp lòng Chúa Cha. Những bậc cha mẹ cao niên có kinh nghiệm này. Con cái đã lớn, đã có gia đình và con cháu, đã thành đạt trong sự nghiệp vẫn xem mình là cha, là mẹ. Dĩ nhiên. Nhưng có những lúc đáng quý, đứa con đã lớn đó gọi mình “ba ơi!”, “mẹ ơi!”, tiếng gọi đó làm ấm lòng người cha, người mẹ, làm hồi sinh tình yêu nơi người con có thể đã hấp hối tự bao giờ. Thiên Chúa muốn nghe lời chúng ta thưa với Ngài “Lạy Cha” như Chúa Giê-su thưa với Ngài, với tình thảo hiếu như Chúa Giê-su dành cho Chúa Cha. Vì thế, dù hôm nay chúng ta thưa “Lạy Cha chúng con”, nhưng thưa với tâm tình của Chúa Giê-su thưa “Abba” với Chúa Cha.

            Abraham và chúng ta tin tưởng cầu nguyện với Thiên Chúa, Chúa Giê-su cũng cầu nguyện với Chúa Cha. Là Con, Chúa Giê-su sau khi trình bày với Chúa Cha nhu cầu của mình, Ngài thảo hiếu xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Còn chúng ta, Đức Cha Fulton Sheen nói, nhiều khi “chúng ta quá vô lễ với Chúa, dám thay đổi lời Thánh Kinh “Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe” thành “Hãy lắng nghe con, lạy Chúa, vì tôi tớ Chúa đang nói.”[1] Vậy, từ nay không chỉ siêng năng cầu nguyện, mà còn mỗi khi cầu nguyện “Lạy Cha chúng con,” chúng ta không nhằm thông tin cho Chúa những nhu cầu của ta, vì Chúa đã biết rồi, mà là lúc chờ đợi Thiên Chúa ban ân huệ và thánh ý Ngài. Chúng ta vui tươi đón nhận thánh ý Thiên Chúa như Chúa Giê-su đón nhận thánh ý Chúa Cha.

            Lạy Chúa Giê-su, xin giúp con sống tâm tình của Chúa khi thưa với Chúa Cha “lạy Cha chúng con”. Xin cho con có lòng thảo hiếu như Chúa khi cầu nguyện với Thiên Chúa.

[1] Fulton Sheen, Go to Heaven: A Spiritual Road Map to Eternity (San Francisco: Ignatius Press, 2017), 104-105.

Linh mục Giuse Nguyễn Văn Thú

———————-

CN 17 TN NĂM C

24-7-2022

Kính chân phước Anrê-Phú Yên

26-7-2022

CHẦU THÁNH THỂ

Giáo xứ An Thượng

GIÁO HUẤN SỐ 35

MỤC VỤ GIỚI TRẺ

Các họat động chính yếu

 

Trong sự vươn ra này, trước hết chúng ta cần dùng ngôn ngữ gần gũi, ngôn ngữ của tình yêu quảng đại, liên đới và hiện sinh, có sức chạm đến trái tim, tác động đến đời sống, đánh thức những khát khao và hy vọng. Người trẻ cần được tiếp cận qua ngã yêu thương, chứ không phải qua thuyết pháp. Người trẻ hiểu thứ ngôn ngữ của những ai phát tỏa sức sống, những ai ở đó với họ và cho họ và những ai, vì tất cả những giới hạn và yếu đuối của mình, cố gắng sống đức tin một cách  đúng đắn hơn. Chúng ta cũng phải suy nghĩ thêm về cách thế để đưa lời rao giảng tiên khởi (kerygma) vào ngôn ngữ của giới trẻ ngày nay (Tông huấn Đức Ki-tô hắng sống, số 241).

————-

CN 17 TN NĂM C

Kính chân phước Anrê-Phú Yên

(St 18,20-32; Cl 2,12-14; Lc 11,1-13)

CHÂN PHƯỚC AN RÊ PHÚ YÊN

Theo đoàn hành hương, chúng tôi đã có cơ hội được đến tham dự Thánh Lễ trong một nhà nguyện nhỏ tại Trụ Sở Trung Ương của Dòng Tên tại Roma, nơi còn lưu giữ đầu của Á Thánh AN RÊ PHÚ YÊN, một thiếu niên đã trung kiên chết để làm chứng cho niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô trên đất Việt Nam vào ngày 26-7-1644.

Khi cha Đắc Lộ lần đầu đến Phú Yên vào tháng 5 năm 1641, ngài đã rửa tội cho khoảng 90 người ngay tại tư dinh công chúa Ma-đa-lê-na Ngọc Liên, con của chúa sãi Nguyễn Phúc Nguyên, và cháu của chúa Nguyễn Hoàng,. Trong số những người mới được rửa tội này có một thiếu niên 16 tuổi được mang tên thánh là AN-RÊ . Đây chính là người đã đổ máu đầu tiên để cho hạt giống của Tin Mừng đơm hoa kết trái trên đất Đại Việt mà hôm nay chúng tôi được tận mắt nhìn thấy thủ cấp của Ngài trên bàn thờ của nhà nguyện nhỏ bé này.

AN-RÊ PHÚ YÊN chỉ là một thiếu niên vừa được nhận vào Đạo Thánh của Chúa Giê-su Ki-tô hơn 3 năm, nhưng niềm tin mãnh liệt vào Chúa Giê-su Kitô đã làm cho cậu vượt qua được tất cả mọi trở ngại để làm chứng cho Tin Mừng trong buổi đầu gian nan đến với xứ Đại Việt.

Ngày 18-01-1615, các cha Dòng Tên bước chân lên đất Đại Việt. Năm 1625, khi đạo Chúa Ki-tô đã được truyền bá khắp nơi ở Đàng Trong thì cũng là lúc AN-RÊ PHÚ YÊN chào đời. Không ai biết chính xác nơi người chứng thứ nhất này được sinh ra; nhưng có lẽ đấy là xóm Lò Giấy, cách nhà thờ Mằng Lăng (Phú Yên) hiện nay khoảng 3 cây số về phía tây bắc bên kia sông Kỳ Lộ, vì đây là xóm đạo đầu tiên ở Phú Yên. Cậu AN-RÊ PHÚ YÊN là con út trong gia đình đông anh chị em và được mẹ là bà Gioanna chăm lo dạy dỗ về đức hạnh cũng như học vấn. Khi cha Đắc Lộ đến lần đầu vào năm 1641, chính bà mẹ này đã dẫn con đến để xin được rửa tội cho con. Khi cha Đắc Lộ đến lần thứ hai vào đầu năm 1642, cũng chính bà mẹ Gioanna này lại đến xin cho con mình được vào Hội Thày Giảng của cha để rao giảng đạo thánh Chúa Trời Đất.

Hội Thầy Giảng Đàng Trong của cha Đắc Lộ vào lúc ấy có 10 anh em, do thầy Inhaxu đứng đầu. Chính thầy Inhaxu đã nói với cha Đắc Lộ rằng: “Trong tất cả các môn sinh, không một người nào đọ kịp trí tuệ của AN-RÊ: linh lợi, thông minh, học đâu hiểu đó.”

Cha Đắc Lộ cũng đã có nhận xét về cậu thiếu niên AN-RÊ: “Người anh không khỏe mạnh lắm; thế mà việc khó mấy trong nhà, anh cũng làm luôn, nhiều khi lại làm quá sức; anh quên mình để giúp kẻ khác…AN-RÊ ở nhà tôi chỉ ít lâu, nhân đức trong linh hồn anh đã biểu lộ ra ngoài; anh sống giữa chúng tôi như một vị thánh nhỏ; anh có tư thái hiền hậu; đức vâng lời mau lẹ; rất kính trọng mọi người, khiến ai cũng đều cảm phục… Anh coi mình như kém hết mọi người và không có gì làm cho anh bằng lòng hơn là được dịp phục vụ người khác.”

Ngày lễ thánh I-nhã, tổ phụ Dòng Tên năm 1643, AN-RÊ PHÚ YÊN cùng 9 anh em khác tay cầm nến sáng, quì trước bàn thờ “TUYÊN THỆ SUỐT ĐỜI PHỤC VỤ HỘI THÁNH, SỐNG KHIẾT TỊNH VÀ SẼ VÂNG LỜI CÁC CHA DÒNG TÊN ĐẾN GIẢNG ĐẠO TRONG NƯỚC HOẶC NHỮNG VỊ THAY MẶT CÁC CHA.”

Cha Đắc Lộ còn nói về thầy AN-RÊ PHÚ YÊN rằng: “Từ ngày khấn, AN-RÊ tự cho mình có bổn phận sống trọn lành hơn khi trước nhiều lắm; sự thật thì suốt năm ấy, chính là năm cuối đời, anh tiến rất cao trên con đường thực hành mọi nhân đức, khiến chúng tôi chẳng hiểu ý Chúa dự định về anh như thế nào, nhưng chúng tôi biết rõ những tác động ấy của ơn thánh sủng chẳng phải là sự thường.”

Cha Đắc Lộ còn cho biết rằng: “AN-RÊ giảng đạo cho người ngoại giáo, dạy dỗ kẻ tân tòng, dọn dẹp nhà thờ rất sạch sẽ; trang hoàng nhà thờ những ngày lễ lớn quanh năm, khéo léo đến nỗi làm cho bổn đạo tăng thêm lòng sốt sắng và cả người ngoại giáo cũng phải trọng kính mầu nhiệm của đạo.”

Cuộc đời tận hiến và hoạt động tông đồ của AN-RE PHÚ YÊN đã cho thấy nhiệt huyết của cậu thiếu niên đối với công việc mở mang nước Chúa sâu đậm như thế nào: mới 19 tuổi và mới theo đoàn truyền giáo được 2 năm mà đã biết chèo thuyền, biết làm hang đá, biết giảng giáo lý, chăm lo học hành, rất đạo đức, ham làm việc, dám xông pha khắp nơi, không ngại khó khăn và nguy hiểm.

Trong khoảng thời gian 1630-1639, nội bộ của Vương triều nhà Nguyễn lộn xộn, bà Vương Phi Tống Thị Toại ăn ở bất chính với Công Thượng Vương. Thầy Inhaxu đã phê phán người phụ nữ tội lỗi ấy và bị bà căm ghét tìm dịp trả thù; mặt khác, bà này rất sợ các thừa sai làm cho Công Thượng Vương theo đạo vì nếu chuyện này xảy ra, bà ta sẽ mất hết quyền lợi. Vì vậy, bà này đã âm mưu với các quan lại địa phương tâu lên với Công Thượng Vương ra lệnh trục xuất các thừa sai vì các Cha đã cho giáo dân tôn thờ ảnh Thánh Giá chứ không sùng bái chư thần trong nước. Công Thượng Vương nghe theo lời xúi quẩy  đã ra lệnh đốt ảnh tượng và đe dọa ‘người nào còn đưa vào đất nước này những vật đó thì hãy coi chừng mạng sống…’

Công cuộc truyền bá tin Mừng cho dân Việt bắt đầu phải đối mặt với những thử thách đầu tiên. Ngày 25-7-1644, ông Nghè Bộ cho lính xông vào nhà các Cha Dòng Tên ở Hội An để bắt thầy Inhaxu, nhưng không động tới Cha Đắc Lộ vì ngại đụng chạm tới người Bồ Đào Nha. Bà tình nhân của Công Thượng Vương ngầm ra lệnh cho ông Nghè Bộ chỉ bắt thầy Inhaxu vì tư thù và cũng vì muốn ngăn cản hoạt động mục vụ và truyền giáo rất đang thành công của cha Đắc Lộ.

Khi bọn lính xông vào nhà thì chỉ có AN-RÊ PHÚ YÊN ở nhà coi sóc 4 anh em đang ốm đau trong khi cha Đắc Lộ, thầy Inhaxu và 4 anh em khác đi làm việc tông đồ. Tức giận vì không bắt được thầy Inhaxu, bọn lính đập phá nhà cửa, ảnh tượng. Để ngăn cản sự phá hoại của bọn lính, thầy giảng AN-RÊ PHÚ YÊN đã nói với bọn chúng rằng: “Nếu các ông muốn bắt thầy Inhaxu thì vô ích, vì thầy ấy không có ở nhà; còn nếu muốn bắt tôi thì rất dễ dàng. TÔI LÀ GIÁO HỮU, HƠN NỮA CŨNG LÀ KẺ GIẢNG. Tôi có cả hai tội mà các ông khép cho thầy Inhaxu để bắt thầy ấy. Nếu thầy ấy có tội thì tôi làm sao vô tội được????” Nghe vậy,  bọn lính tức tối trói thầy AN-RÊ PHÚ YÊN, đóng gông vào cổ, đưa xuống thuyền đi ngược theo giòng sông Thu Bồn về Dinh Trấn Quảng Nam, trong huyện Điện Bàn ngày nay. Sau này người ta kể lại rằng: “Thầy AN-RÊ vui vẻ theo họ trên suốt quãng đường, không ngừng giảng cho những người dẫn mình vào ngục biết đường tránh địa ngục và lên Thiên Đàng.”

Sáng ngày hôm sau, 26-7-1644, quan trấn thủ đưa thầy AN-RÊ PHÚ YÊN ra xét xử và kết án tử hình. Trước giờ hành hình, thầy AN-RÊ PHÚ YÊN đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Hỡi anh em,  đối với Chúa Giê-su yêu dấu của chúng ta, chúng ta hãy LẤY TÌNH YÊU ĐÁP LẠI TÌNH YÊU. Chúa đã chịu chết đau khổ vì chúng ta, nên chúng ta hãy LẤY MẠNG SỐNG ĐÁP ĐỀN MẠNG SỐNG…Anh chị em thấy rõ tôi đây bị bắt và sắp phải chết, chẳng phải vì ăn cướp, giết người hay làm thiệt hại đến ai, mà chỉ vì tôi đã nhìn nhận chúa tể Trời Đất và Con Một Người xuống thế chịu chết chuộc tội cho chúng ta. Mọi sự chúng ta có đều do nơi Người. Thế mà người ta lại muốn tôi phạm đến Người. Tôi chẳng sợ bất cứ hình phạt nào người ta có thể bắt tôi phải chịu. Tôi chỉ sợ lửa hỏa ngục đời đời, là hình phạt dành cho kẻ từ chối không tin thờ Chúa Giê-su Ki-tô là Đức Chúa Trời thật. Hỡi anh chị em, hãy coi chừng. Đừng từ chối ơn Đức Chúa Trời muốn ban cho anh chị em. Phải liệu sao cho khỏi bị xử phạt đời đời.”

Đầu Chân Phước An-Rê Phú Yên được lưu giữ ở Trụ Sở Trung Ương của Dòng Tên tại Roma

Sau khi nhận án tử hình, thầy AN-RÊ PHÚ YÊN xưng tội, quì cầu nguyện, chào vĩnh biệt mọi người rồi đi theo toán lính ra pháp trường là một thuở ruộng cách thành Dinh Trấn Quảng Nam khoảng một cây số. Ngày nay chỗ này thuộc huyện Điện Bàn, ở khoảng cây số 952 trên quốc lộ 1A. Thuở ruộng ấy được dân chúng gọi là Gò Xử, sau này nói trại đi là Gò Sứ gần Chợ Củi.

Trên đường ra pháp trường, thày AN-RÊ PHÚ YÊN luôn nhắn nhủ mọi người rằng: “ Hỡi anh chị em! Hãy giữ nghĩa cùng Chúa Giê-su cho đến chết. Không có gì dập tắt được lửa yêu mến Chúa Giê-su trong lòng chúng ta.”

Buổi sáng ngày 26-7-1644 ấy, giây phút tiễn đưa giữa một cha thừa sai Dòng Tên và một người con dân nước Việt thật bi hùng như chính Cha Đắc Lộ kể lại rằng: Trên đường ra pháp trường, tôi hằng ở bên anh và tôi không theo kịp, vì anh đi rất nhanh, mặc dầu phải mang gông nặng. Tới địa điểm chiến thắng, anh quì xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác bao quanh anh. Họ không cho tôi ở bên trong vòng lính, nhưng viên đội trưởng cho phép tôi vào và đứng cạnh anh. Anh vẫn quì dưới đất, mắt nhìn trời, miệng luôn hé mở và kêu tên Chúa Giê-su. Một người lính lấy giáo đâm anh từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Lúc đó AN-RÊ nhìn tôi âu yếm như thể vĩnh biệt tôi. Tôi bảo anh hãy nhìn lên trời, nơi anh sắp tới, và có Chúa Giê-su chờ đón anh. Anh ngước mắt lên trời cao, và không nhìn xuống nữa. Cũng tên lính ấy rút giáo ra, đâm lần thứ hai, rồi lại đâm lần nữa, như thể lục lọi tìm trái tim anh. Nhưng con người vô tội ấy vẫn không lay chuyển, thật là kỳ diệu. Sau cùng, một người lính khác thấy lưỡi giáo không làm cho anh ngã xuống đất, liền lấy mã tấu chém cổ, nhưng một nhát vẫn chưa xong, phải thêm một nhát nữa mới làm đứt cổ; đầu rơi về phía bên phải, chỉ còn vướng mảnh da. Nhưng tôi nghe rất rõ cùng lúc đầu lìa khỏi cổ thì thánh danh Chúa Giê-su không phải từ miệng anh thốt ra mà qua vết chém ở cổ. Và cùng lúc hồn anh bay về Trời thì xác anh ngã xuống đất.

Máu thầy AN-RẾ PHÚ YÊN đã thấm vào đất Việt, nhưng thân xác thầy AN-RÊ PHÚ YÊN đã được cha Đắc Lộ đưa về an táng tại nhà thờ chính tòa ở Macao, rồi sau được cải táng; hài cốt của thày AN-RÊ  tuy vẫn còn nhưng bị lẫn lộn cùng với hài cốt của các vị tử đạo tại Nhật Bản, sau một cuộc hỏa hoạn tại nhà lưu giữ hài cốt ở Macao, nên không còn phân biệt được nữa. Riêng phần đầu của thầy AN-RÊ PHÚ YÊN (đã bị chặt lìa khỏi cổ) thì được cha Đắc Lộ luôn mang theo bên mình, và đem về ROMA đặt tại nhà lưu giữ hài cốt của các vị tử đạo Dòng Tên tại trụ sở Trung Ương của Dòng Tên để hôm nay, đoàn hành hương nhỏ bé của con dân nước Việt được tận mắt thấy được chứng tích của người con trung kiên của Chúa trên con đường làm chứng cho Tin Mừng.

Ngày 05-03-2000, tại Roma, Đức Thánh Cha Gioan PhaoLô II đã tuyên phong thầy AN-RÊ PHÚ YÊN lên bậc Á THÁNH.

19 TUỔI ĐỜI, ĐẦY TRÀN NHIỆT HUYẾT VỚI BAO ƯỚC VỌNG…, NHƯNG SẴN SÀNG CHẤP NHẬN ĐẦU LÌA KHỎI CỔ ĐỂ GIỮ TRỌN NIỀM TIN. XIN THÁNH AN-RÊ PHÚ YÊN PHÙ TRỢ CHO THANH THIẾU NIÊN CON DÂN NƯỚC VIỆT, LUÔN ĐỨNG VỮNG TRÊN CON ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG YÊU THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ.

[người hành hương]

Lm Antôn Trần Văn Trường

20-6-2017

Khi người ta đưa chân phước (CP) An-rê vào tù, ông An-rê già, bố của cha Louis Đoan, đã bị nhốt trong đó. Hai vị lần chuỗi suốt đêm, để được về trời gặp Chúa. Ông An-rê còn vợ con, nên được tha. Sáng ra CP An-rê được đem đi Gò Xử. CP lần chuỗi suốt đường đi. Khi CP chết, những người Bồ đi theo để chứng kiến cái chết của CP, đã chia nhau từng hạt chuỗi trong tràng chuỗi của CP. Khi tới nơi xử, CP quì xuống cầu nguyện. CP nhìn cha Đắc Lộ đứng bên cạnh, cha bảo CP hãy nhìn trời.

Những giờ phút cuối đời, CP An-rê đắm chìm trong kinh nguyện. Đức cha Ba-tô-lô-mê-ô viết về ba bài đọc thánh lễ hôm nay như sau : “Rõ ràng Lời Chúa hôm nay muốn dạy chúng ta về việc cầu nguyện. Bài sách Khởi Nguyên (bđ1) cho chúng ta thấy gương cầu nguyện nơi Abraham. Thánh Luca trong bài Tin Mừng (BTM) ghi lại giáo huấn của Chúa về sự cầu nguyện. Còn bài thư Phaolô (bđ2) khẳng định Thiên Chúa đã chấp nhận chúng ta nên chúng ta không còn lý do gì để ái ngại khi cầu nguyện. Chúng ta hãy suy nghĩ những bài Kinh Thánh hôm nay để đổi mới việc cầu nguyện của chúng ta (Giải Nghĩa Lời Chúa Năm C, trang 292).

Bài đọc 1 (St 18,20-32) : Cha Sullivan viết : “Bài đọc hôm nay tiếp nối bài đọc thánh lễ Chúa nhật tuần trước. Tuần trước chúng ta được đọc rằng: Chúa được 2 thiên thần đi kèm, khi hiện ra với ông Ap-ra-ham và Chúa hứa sang năm ông sẽ có con trai. Tuần này các thiên thần đã ra đi, Thiên Chúa nói cho Ap-ra-ham biết về tội ác của hai thánh Xơ-đôm và Gô-mô-ra. Hai thành ở gần phía Nam Biển Chết.

Ông Ap-ra-ham bắt đầu xin Chúa tha cho hai thành, nếu có 50 người lành trong đó. Từ 50 xuống 45, xuống 40, xuống 30, xuông 20, xuống 10. Đến 10 người lành cũng chẳng có (The Sunday Readings,tràng 251).

Đức cha Ba-to-lô-mê-ô viết : “Chỉ có điều tiếc trong câu chuyện này là Abraham đã không dám tiếp tục nài xin Chúa thương tha cho dân thành tội lỗi, nếu không tìm được 10 người công chính. Ông đã dùng lại nơi con số này vì ông tưởng đó là con số tối thiểu có thể sánh bằng được với con số đông đảo những người tội lỗi. Ông chưa hiểu biết lòng Chúa. Người phán trong sách Giêrêmia rằng: “Nếu tìm được ở Giêrusalem một người mà thôi biết giữ công lý, Người cũng sẽ tha tội cho cả thành” (5,1). Và trong sách Êdêkien, Người cũng nói: “Nếu tìm được người nào đứng trước nhan Người để bầu chữa cho xư sở, Người cũng sẽ ngưng trút thịnh nộ xuống (22,30). Những lời khẳng định ấy phải làm chúng ta phấn khởi hơn nữa  trong nỗ lực nên thánh và cầu nguyện cho xã hội (Sđd, trang 295).

Dù sao câu chuyện này cũng rất sống và ý nghĩa. Nó khiến chúng ta thêm lòng cảm mến vị tổ phụ và kính yêu Thiên Chúa nhân lành. Nó thúc đẩy chúng ta cố gắng  nên thánh hơn nữa cho xã hội và cầu nguyện nhiều hơn cho mọi người, nhất là cho kẻ tội lỗi. Lời cầu nguyện của chúng ta có cơ may hiệu nghiệm nhiều hơn lời cầu xin của Abraham, nếu chúng ta được phép so sánh như vậy, bởi vì chúng ta đã được chính Đức Giêsu Kitô dạy cho phải cầu nguyện thế nào, như trong bài Tin Mừng chúng ta sẽ nghe đọc (sđd, trang 296).

Đức Mẹ Fatima cũng dạy chúng ta cầu nguyện cho người tội lỗi. Trước khi vị Thiên Nữ (Đức Mẹ) biến khuất vào hướng mặt trời mọc, Bà đã căn dặn : “Các con hãy cầu nguyện, các con hãy siêng năng cầu nguyện và hãy hy sinh đền tội cho kẻ tội lỗi, bởi vì nhiều linh hồn sẽ phải sa hỏa ngục do không có ai hy sinh và cầu nguyện cho họ (Nguyễn Hữu Thy, Sứ Điệp Fatima, trang 71).

Sau những lần Đức Mẹ đã hiện ra, ba trẻ Fatima đã cho biết rằng, một điều đã trở nên quá xa lạ đối với con người ngày nay, kể cả đối với một số lớn các Kitô hữu là việc hy sinh hãm mình để đền bù tội lỗi. Nhưng như ĐTC Gioan XXIII đã có lần nói: “Người ta không thể làm người mà không có luân lý đạo đức. Người ta không thể làm Kitô hữu mà không có lòng ăn năn hoán cải và đền bù tội lỗi” (NHT,sđd, trang 91).

Bài Tin Mừng (Lc11,1-13): cha Sullivan viết : “ Các tông đồ thường thấy Chúa Giê-su cầu nguyện một mình. Họ xin Chúa dạy họ cầu nguyện như ông Gioan dạy các môn đệ của ông. Người Do Thái thường cầu nguyện vào ban sáng và ban chiều. Người Do Thái cũng cầu nguyện trước khi ăn. Chúa đáp lại lời van xin của các tông đồ bằng lời kinh ‘Lạy Cha’. Bản văn của Lu-ca khác với của Mat-thêu. Nhưng nội dung thì giống nhau…

Chúa Giê-su nhấn mạnh đến sự kiên trì cầu nguyện. Chúa Cha trì hoãn ban những yêu cầu của chúng ta, vì Người muốn chúng ta tiếp tục tín thác vào Người.  Sự kiên trì cầu nguyện đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn. Đây là ân phúc lớn lao hơn ân phúc chúng ta xin. Người trì hoãn đáp lời, là vì Người muốn ban cho chúng ta những món quà tinh thần quan trọng hơn. Nhiều vị đại thánh thường tư hỏi tại sao Chúa không đáp lại ngay lời chúng ta xin, hay bỏ đi những cám dỗ. Sau họ mới khám phá ra rằng Thiên Chúa chậm ban, vì để sự thánh thiện của họ được tiến bộ (The Sunday Readings, Năm C, trang 286).

Bài đọc 2 (Cl 2,12-14): bài đọc 2, thư thánh Phao-lô gửi cộng đoàn Cô-lô-sê. Đức cha Ba-tô-lô-mê-ô viết về bđ2 như sau : “Vị tổ phụ không dám nài xin Thiên Chúa cho đến cùng để dân thành Sơ-đôm khỏi bị phạt, là vì một đàng người còn sợ đức công minh của Chúa, và đàng khác, người không chắc chắn như chúng ta ngày nay có một tư thế khác. Thánh Phao-lô khuyên ta suy nghĩ về ơn gọi của mình. Há phép rửa không biến đổi chúng ta nên những người con mới sao ? Chúng ta đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô và đã cùng được sống lại với Người. Phép rửa đã làm cho chúng ta công việc ấy. Và như vậy chúng ta đã chết cho tội lỗi và đã hồi sinh trong Đức Ki-tô. Ân sủng do mầu nhiệm Thánh giá của người đã ân xá cho ta mọi điều sa ngã, đã thủ tiêu văn khố tội nợ của ta. Chúng ta đã được trở nên công chính và trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa. Điều răn duy nhất là chúng ta phải ở lại luôn mãi trong tư thế ấy để luôn luôn nhận được lòng thương xót của Chúa. Nhưng giả như chúng ta không chắc chắn về ân sủng nơi mình, chúng ta vẫn phải tin tưởng chắc chắn vào ân sủng nơi Thánh giá Đức Ki-tô. Người đã trở nên của lễ đền tội đời đời cho nhân loại, để Hội Thánh không ngừng có thể được ơn tha thứ tội lỗi. Như thư Híp-ri viết: chúng ta đã có Đấng cầu bầu đảm bảo ở trước mặt Thiên Chúa… Thế nên chúng ta hãy dạn dĩ  tiến gần đến ngai ân sủng.

Chúng ta hãy dạn dĩ cầu nguyện, và cầu nguyện không ngừng. Hãy cầu nguyện cho mình và cho xã hội. Hãy cầu nguyện như Chúa đã dạy trong kinh Lạy Cha và hãy cầu nguyện tin tưởng như thư Phao-lô khuyên bảo. Chúng ta có tư thế mà trước đây Áp-ra-ham không có. Không những chúng ta có Đấng cầu bầu bảo đảm. là Đức Giê-su. Chính chúng ta cũng có khả năng để được Chúa nghe lời vì chúng ta đã trở nên nghĩa tử của Ngưới, và được cầu nguyện bằng chính lời của Con yêu dấu Người…

Cầu nguyện

Lạy Chân Phước Anrê-Phú Yên,

Ngài đang ở trên trời, bên cạnh Thiên Chúa,

Xin ngài cầu bầu cho chúng con đang còn ở dưới thế.

Ngài đã từng ở dưới thế, đã cảm nhận những khó khăn và lo toan

từng đổ máu để bảo toàn đức tin.

Xin cầu cùng Chúa để nâng đỡ chúng con

trung thành với đức tin chúng con đã được lãnh nhận,

và xin nhớ đến quê hương Việt Nam của ngài

và của chúng con.

Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen

Linh mục Giuse Nguyễn Trung Thành