Chúa Nhật XXVII Thường Niên Năm A
CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN NĂM A
Ngày 08/10/2023
CHẦU THÁNH THỂ
Giáo xứ Trung Phước
GÍAO HUẤN SỐ 46
HAI KẺ THÙ TINH VI CỦA SỰ THÁNH THIỆN
Những người theo tân thuyết Pê-la-gi-ô (tt)
Đối nghịch với những gợi ý của Chúa Thánh Thần, không phải là hiếm trường hợp trong đó đời sống của Giáo hội có thể trở thành một món bảo tàng hay là của riêng của một thiểu số ưu tuyển. Đến nay có thể xảy ra khi một số nhóm Kitô hữu gán tầm quan trọng quá đángcho những qui tắc, những tập tục hay cách làm nào đó. Khi đó, Tin Mừng dễ bị cắt xén và thu hẹp, bị tước mất tính chân chất, vẻ quyến rũ và hương vị của nó. Đây có thể là một dạng tinh vi của chủ thuyết Pê-la-gi-ô, vì dường như nó xem đời sống ân sủng là thứ yếu so với chủ thuyết Pê-la-gi-ô, vì dường như nó xem đời sống ân sủng là thứ yếu so với một số cấu trúc nhân loại. Nó có thể ảnh hưởng đến các nhóm, các nhóm và các cộng đoàn, và điều này giải thích tại sao rất thường các nhóm ấy bắt đầu với một sức sống mạnh mẽ trong Chúa Thánh Thần, chỉ để kết thúc trong tình trạng hóa thạch… hay htối nát (Tông huấn Hãy Vui Mừng Hoan Hỉ, số 58).
LỜI CHÚA
(Is 5,1-7; Pl 4,6-9; Mt 21,26-38)
Bài Ðọc I: Is 5, 1-7
“Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Tôi sẽ ca tặng người yêu bài hát của cô bác tôi về vườn nho.
Người tôi yêu có một vườn nho trên đồi xinh tươi. Người rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn, và trông mong nó sinh quả nho, nhưng nó lại sinh toàn nho dại.
Vậy giờ đây, hỡi dân cư Giêrusalem và người Giuđa, hãy luận xét giữa ta và vườn nho ta. Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho ta mà ta đã không làm? Sao ta trông mong nó sinh quả nho, mà nó lại sinh quả nho dại!
Giờ đây ta tỏ bày cho các ngươi biết ta sẽ làm gì đối với vườn nho ta: Ta sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó. Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel, và người Giuđa là chồi cây Chúa vui thích. Ta trông mong nó thực hành điều chính trực, nhưng đây toàn sự gian ác. Ta trông mong nó thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 79, 9 và 12. 13-14. 15-16. 19-20
Ðáp: Vườn nho của Chúa là nhà Israel
Xướng: Từ Ai-cập Chúa đã mang về một gốc nho. Chúa đã đuổi chư dân đi để ương trồng nó. Nó vươn ngành ra cho tới nơi biển cả, vươn chồi non cho tới chỗ đại giang.
Xướng: Tại sao Ngài phá vỡ hàng rào, để bao khách qua đường đều lảy hái nó, để lợn rừng xông ra tàn phá, và muông thú ngoài đồng dùng nó làm cỏ nuôi thân?
Xướng: Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; từ trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình.
Xướng: Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa. Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Ngài. Lạy Chúa thiên binh, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống.
Bài Ðọc II: Pl 4, 6-9
“Thiên Chúa bình an sẽ ở cùng anh em”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô.
Vả lại, hỡi anh em, những gì là chân thật, trong sạch, công chính, là thánh thiện, đáng yêu chuộng, danh thơm tiếng tốt, là nhân đức, là luật pháp đáng khen, thì anh em hãy tưởng nghĩ những sự ấy. Những điều anh em đã học biết, đã lãnh nhận, đã nghe và đã thấy nơi tôi, anh em hãy đem những điều đó ra thực hành, thì Thiên Chúa bình an sẽ ở cùng anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 21, 33-43
“Ông sẽ cho người khác thuê vườn nho”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh, đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa. Ðến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: “Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó”. Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?” Các ông trả lời, “Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi”.
Chúa Giêsu phán: “Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Ðó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!” Bởi vậy, Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái”.
Ðó là lời Chúa.
SUY NIỆM I
Lm. Giuse Nguyễn Trung Thành
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII
Đức Thánh Cha Gioan XXIII là người đã triệu tập Công Đồng Vatican II, mở cánh cửa Giáo Hội ra với thế giới bên ngoài, và đem một sinh khí mới vào đời sống của Giáo Hội.
Triệu tập Công đồng là một công việc vĩ đại, phát xuất từ nhiều lo lắng cho tương lai Giáo Hội với quá nhiều vấn đề khó khăn, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lại vẫn thường cầu nguyện rất đơn sơ nhẹ nhàng trước giờ đi ngủ: “Lạy Chúa, Giáo Hội là của Chúa, con chỉ là tôi tớ. Giáo Hội mạnh yếu thành đạt là trách nhiệm của Chúa. Con đã làm bổn phận của con, giờ này đến giờ con đi ngủ, xin Chúa ban phúc lành cho con.” Nói thế rồi, Ngài đi vào giấc ngủ ngon. Như vậy, dù thường xuyên suy tư trăn trở cho Giáo Hội, ngài lại rất thực tế sống tinh thần phó thác – giống như chỉ chuyên chăm hoàn tất bổn phận hằng ngày của mình với “Mười Điều Tâm Niệm” mà ngài đã đề ra cho mình:
- Ngày hôm nay, tôi sẽ sống tích cực trọn vẹn, chứ không tìm cách giải quyết mọi vấn đề của đời mình.
- Ngày hôm nay, tôi sẽ chú ý đặc biệt đến dáng vẻ của mình: ăn mặc đơn sơ, không lớn tiếng, lịch sự trong cách ứng xử; tôi sẽ không phê phán ai; tôi cũng sẽ không đòi ai phải ứng xử hoặc kỷ luật ai, trừ ra chính con người của mình.
- Ngày hôm nay, tôi vui sướng tin chắc rằng tôi được tạo dựng để sống hạnh phúc, không chỉ cho đời sau mà ngay cả từ đời này.
- Ngày hôm nay, tôi sẽ sống theo hoàn cảnh của mình, mà không đòi hỏi hoàn cảnh phải phù hợp với những ước muốn của tôi.
- Ngày hôm nay, tôi sẽ dành 10 phút để đọc điều gì thật hữu ích, và luôn nhớ rằng lương thực cần cho cuộc sống như thế nào thì đọc điều hữu ích cũng cần thiết để nuôi dưỡng cho linh hồn mình như vậy.
- Ngày hôm nay, tôi sẽ làm một điều tốt mà không kể cho ai nghe.
- Ngày hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một điều tôi không thích: và nếu tôi bị tổn thương, thì tôi cũng không cho ai biết điều này.
- Ngày hôm nay, tôi sẽ hoạch định một chương trình cho riêng tôi: tôi có thể không theo sát được từng chữ, nhưng tôi sẽ có một chương trình như thế. Và tôi sẽ đề phòng hai điều tai hại: cẩu thả và lừng khừng, không dám quyết tâm.
- Ngày hôm nay, tôi tin chắc rằng, dù thế nào đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn yêu thưong tôi như chỉ có mình tôi trên thế gian này.
- Ngày hôm nay, tôi sẽ không sợ hãi gì. Tôi sẽ không ngần ngại thưởng ngoạn vẻ đẹp thiên nhiên và tin tưởng vào lòng nhân ái của con người và cuộc đời.
Thực thế, trong vòng 12 tiếng đồng hồ, tôi chắc chắn có thể làm tốt điều mà tôi nghĩ rằng sẽ thật kinh hoàng nếu phải làm nó suốt cả đời.
Đức Gioan XXIII cũng thường được gọi là “Giáo hoàng Gioan nhân hậu.” Ngài coi mình là “con cái của Thánh Phanxicô” khi gia nhập Dòng Ba Phanxicô lúc còn là một chủng sinh. Vị Giáo hoàng khiêm tốn này thường bắt chước lời của ông Giuse ở Ai Cập (Cựu Ước) chào hỏi các thành viên của Dòng Ba Phanxicô: “Tôi là Giuse, người anh em của quý vị.”
Vị Giáo hoàng thứ 261 này có tên khai sinh là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh tại làng Sotto il Monte, thuộc tỉnh Bergamo, vào ngày 25.11.1881, con trai đầu của ông Giovanni Battista Roncalli và bà Marianna Mazzola. Ngay buổi chiều hôm đó, trẻ sơ sinh Angelo được rửa tội. Người đỡ đầu là ông Zaverio Roncalli, một trong những người bác của ông bố Battista, rất đạo đức, ở độc thân, tự nhận lấy bổn phận dạy giáo lý cho nhiều đứa cháu. Sau này, Đức Gioan XXIII đã cảm động nhớ lại nhiều kỷ niệm và biết ơn về những lo lắng chăm sóc của ông.
Ngay từ thời thơ ấu, đã có một khuynh hướng nghiêm chỉnh về đời sống Giáo hội, nên sau khi xong bậc tiểu học, cậu chuẩn bị vào chủng viện giáo phận nhờ sự trợ giúp học thêm tiếng Ý và tiếng Latinh của một số linh mục trong khi theo học tại một trường có uy tín của Celana. Ngày 07-11-1892, cậu gia nhập chủng viện Bergamo. Sau khi hoàn tất tốt đẹp năm thứ hai của thần học vào tháng Bảy năm 1900, thầy được gửi về Roma vào tháng Giêng năm sau để vào chủng viện Apollinare, nơi có một số học bổng cho hàng giáo sĩ thuộc giáo phận Bergamo.
Ngày 13 tháng 7 năm 1904, mới hai mươi tuổi rưỡi, thầy đậu tiến sĩ thần học. Ngày 10 tháng 8 năm 1904, thầy được thụ phong linh mục trong nhà thờ Đức Maria di Monte Santo; ngài cử hành Thánh Lễ đầu tiên vào ngày hôm sau trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô. Dịp này, ngài quyết tâm tận hiến hoàn toàn cho Chúa Kitô và hết lòng trung thành với Giáo hội.
Sau một thời gian ngắn về nghỉ tại quê nhà, vào tháng Mười, ngài bắt đầu theo học giáo luật tại Rôma, và rồi phải nghỉ học vào tháng 2 năm 1905, khi ngài được chọn làm thư ký của Giám mục mới của giáo phận Bergamo, Đức cha Giacomo Radini Tedeschi.
Ngoài nhiệm vụ thư ký, ngài còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác. Từ năm 1906, ngài đảm nhiệm giảng dạy nhiều môn học trong chủng viện: Lịch sử giáo hội, Giáo phụ và Hộ giáo. Từ năm 1910, ngài cũng phụ trách môn Thần học cơ bản. Ngài nghiên cứu lịch sử địa phương, xuất bản tác phẩm viết về những chuyến viếng thăm mục vụ của thánh Carlo Bergamo (1575), một nỗ lực trong nhiều thập kỷ dài và tiếp tục cho đến những ngày trước cuộc bầu cử Giáo hoàng. Ngài cũng là chủ nhiệm tờ báo định kỳ của giáo phận “La Vita Diocesana” và kể từ năm 1910, ngài làm trợ úy cho Liên hiệp những Phụ nữ Công giáo.
Khi Thế chiến thứ I bùng nổ, vào năm 1915 ngài làm tuyên úy hơn ba năm với cấp bậc trung sĩ, chăm sóc thương binh trong các bệnh viện ở Bergamo. Vào tháng Bảy năm 1918, ngài dấn thân phục vụ cho những người lính bị bệnh lao.
Tiếp theo, ngài được giao phụ trách công việc của Bộ Truyền giáo tại Ý, đồng thời cũng làm linh hướng trong chủng viện. Ngài đã thực hiện một chuyến đi lâu dài ra ngoại quốc để thi hành kế hoạch của Tòa Thánh nhằm mang về Roma những tổ chức khác nhau để hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo và viếng thăm một số giáo phận Ý để quyên góp nguồn tài trợ và giải thích về công việc mà ngài đang phụ trách.
Vào năm 1925, với sự bổ nhiệm làm Visitatore Apostolico tại Bulgaria, ngài đã bắt đầu giai đoạn phục vụ cho ngành ngoại giao của Tòa Thánh cho đến năm 1952. Sau lễ phong chức giám mục diễn ra tại Roma vào ngày 19 tháng 3 năm 1925, ngài khởi hành đi Bulgaria để giúp đỡ cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé và đang gặp nhiều khó khăn tại đó. Trong hàng chục năm, Đức cha Roncalli đã đặt nền móng cho việc thiết lập một Tông tòa mà ngài đã được bổ nhiệm làm vị đại diện đầu tiên vào năm 1931. Ngài phục hồi được mối quan hệ thân thiện với Chính phủ và Hoàng gia Bulgaria, mặc dù có đôi chút trở ngại vì đám cưới theo nghi lễ chính thống của vua Boris với công chúa Giovanna của hoàng gia Savoia, và đó cũng là dịp để khởi động những mối quan hệ đại kết đầu tiên với Giáo hội Chính thống Bulgaria.
Vào ngày 27-11-1934, ngài được bổ nhiệm làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Các nước này chưa có quan hệ ngoại giao với Vatican. Với tính nhạy bén và năng động của mình, ngài đã tổ chức được một số lần gặp gỡ chính thức với Đức Thượng phụ Constantinople sau nhiều thế kỷ tách biệt với Giáo hội Công giáo.
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã thận trọng giữ được tính trung lập, giúp cho cả hàng ngàn người Do Thái khỏi thành nạn nhân diệt chủng, và giúp cho người Hy Lạp thoát khỏi nạn đói.
Ngài được bổ nhiệm về làm Khâm sứ tại Paris vào ngày 30 tháng 12 năm 1944. Một hoàn cảnh khá phức tạp đang chờ đợi. Chính phủ lâm thời buộc tội Giáo hội hợp tác với chính phủ Vichy và đòi Giáo hội phải thoái vị ba mươi giám mục. Nhờ sự bình tĩnh và linh động của vị tân sứ thần, chỉ có ba vị bị bãi nhiệm. Phẩm chất con người của ngài đã mang lại sự kính nể trong bối cảnh ngoại giao và chính trị tại Paris.
Sau khi lãnh tước vị hồng y, ngài được chuyển về Venice vào ngày 5 tháng 3 năm 1953 và hoàn thành nhiệm vụ giám mục tại đây cách tốt đẹp với những chuyến thăm viếng mục vụ, cử hành Công nghị giáo phận, thực hiện kế hoạch làm cho các tín hữu gần gũi với Kinh Thánh…
Ngày 28 tháng 10 năm1958, ngài được bầu chọn làm giáo hoàng. Một vị Giáo hoàng nhận chức khi đã bảy mươi bảy tuổi khiến nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một triều đại chuyển tiếp. Nhưng ngay từ đầu, Đức Gioan XXIII đã tỏ ra là một giáo hoàng của thời đại: khôi phục lại các hoạt động đúng đắn trong các cơ quan của giáo triều, viếng thăm các giáo xứ, bệnh viện và nhà tù của giáo phận Rôma, triệu tập Công nghị giáo phận…
Sự đóng góp lớn nhất của Đức Gioan XXIII là việc triệu tập Công đồng Vatican II, được loan báo trong Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô vào ngày 25 tháng 01 năm 1959. Các mục tiêu ban đầu của Công đồng được nêu rõ trong bài phát biểu vào lễ khai mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962: không phải là để đưa ra những chân lý mới, nhưng để xác định lại các học thuyết truyền thống phù hợp hơn với sự nhạy cảm đương đại. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII mời gọi Giáo hội, thay vì lên án và công kích, hãy hướng về lòng thương xót và ủng hộ việc đối thoại với thế giới, trong một nhận thức mới về sứ mệnh của Giáo Hội là đón nhận tất cả mọi người. Trong tinh thần cởi mở phổ quát ấy, các giáo hội Kitô khác cũng được mời tham dự vào Công đồng để khởi đầu một tiến trình xích lại gần nhau hơn.
Vào mùa xuân năm 1963, Đức Gioan XXIII được trao giải thưởng Balzan về hòa bình, xác nhận những nỗ lực của ngài đối với hòa bình qua việc ban hành Thông điệp Mater et Magistra (1961) và Pacem in Terris (1963), cũng như vai trò của ngài trong cuộc khủng hoảng tại Cuba vào mùa thu năm 1962.
Ngài qua đời vào tối ngày 3 tháng 6 năm 1963 và được phong thánh vào ngày 27-4-2014 lúc 10g tại Vatican.
(Tổng hợp) – https://tgpsaigon.net
Cuộc đời của Đức Giáo hoàng Gioan 23 đúng là một tá điền tốt của vườn nho, của Hội thánh Chúa, trong Lời Chúa thánh lễ hôm nay.
Bài Tin Mừng (Mt 21,33-43) : cha Đặng Quang Tiến viết : ‘Dụ ngôn bắt đầu bằng mô tả việc ông chủ lập một vườn nho. Hàng rào vườn nho có thể làm bằng gỗ cây hoặc đá, chất thành hàng chung quanh, để bảo vệ khỏi thú dữ và trộm cướp (x.Tv 8o,13-14). Bồn đạp nho đào sâu trong lòng đất để lấy nước cốt nho và tháp canh để canh chừng chim trời, thú vật và trộm cướp. Chủ vườn đã làm tất cả những gì có thể cho vườn nho của ông.
Dụ ngôn rất giầu các chi tiết ẩn dụ. Vườn nho tượng trưng cho dân Ítraen (Is 5,7); tuy nhiên trong dụ ngôn này, vườn nho cũng là Giêrusalem (Dt 13,12tt) và Nước Thiên Chúa (c.43). Các tá điền là các thượng tế, người Pharisêu, niên trưởng (21,23-45), nghĩa là những người lãnh đạo Giêrusalem và Ítraen. Hoa trái là những việc tốt lành mà Thiên Chúa đòi hỏi. Các tôi tớ là các ngôn sứ của Thiên Chúa. Người con là Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa.
Dụ ngôn nhắc đến hoa trái cho thấy việc thu hoạch hoa trái vào đúng kỳ hạn là rất quan trọng đối với Thiên Chúa. Dụ ngôn nói đến chủ vườn sai người của ông đến. Các tá điền đã đáp lại bằng bạo lực và giết chết các tôi tớ của Thiên Chúa. Sau cùng chủ vườn nho quyết định sai con của ông đến. Ngài là Đức Giêsu. Matthêu để cho thấy là chủ vườn nho nghĩ rằng vì ông mà con ông sẽ được kính nể. Nhưng các tá điền đã không kính nể, mà còn âm mưu giết người con thừa tự để chiếm đoạt gia sản. Người đã bị giết và treo trên thập giá ở ngoài thành Giêrusalem.
Sang phần áp dụng dụ ngôn (21,40-46), Matthêu bắt đầu bằng một câu hỏi : ‘Vậy khi chủ vườn nho đến, ông sẽ đối xử thế nào với những tá điền ấy ?’. Phần này sẽ trình bày phản ứng của chủ vườn nho. Các tá điền đã không chiếm được vườn nho như họ nghĩ. Chủ vườn nho sẽ lấy lại và giao cho các tá điền khác, để nộp hoa trái đúng thời. Con Thiên Chúa bị giết trở thành viên đá góc, trên đó Thiên Chúa xây dựng dân mới. Dân tộc mới này sinh hoa trái khi họ sống theo ý muốn của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu loan báo cho họ.
Hội thánh là vườn nho của Chúa. Dụ ngôn mời gọi mỗi người chúng ta làm việc cho vườn nho của Chúa và sinh hoa trái cho Thiên Chúa…
Thánh Gioan Thánh Giá nói đến những người sống cho Thiên Chúa : ‘Họ chỉ nhằm làm sao sống thuận theo ý Thiên Chúa và làm đẹp lòng Ngài, và họ chỉ ham muốn những điếu ấy. Thế nên họ quảng đại cho hết những gì họ có vì Thiên Chúa và vì bác ái đối với tha nhân. Họ sằn lòng chịu thiếu thốn mọi thứ, kể cả về tâm linh lẫn vật chất, bởi lẽ họ chì dán mắt vào sự hoàn thiện đích thực bên trong, chỉ lo làm đẹp lòng Thiên Chúa và chẳng lo gì chuyện đẹp lòng mình (Đêm dầyI,3.2) (Hãy Tìm Chúa, trang 270-274).
Bài đọc 1(Is 5,1-7) Niên biểu của bài ca vườn nho này có thể được đặt vào khoảng năm 737 tCN, nghĩa là vào giai đoạn đầu sứ vụ của ngôn sứ Isaia ở Giêrusalem trước khi thành thánh bị quân Syri liên minh với vương quốc phương bắc vây hãm.
Những sứ điệp đầu tiên của ngôn sứ liên quan đến tội thờ ngẫu tượng. Khi hướng nhìn về vương quốc phương Nam, vương quốc Giuđa mà thủ đô là Giêrusalem, ngôn sứ Isaia thất vọng theo cách khác : bất công, áp bức những kẻ nghèo hèn cô thế, bạo lực, máu và nước mắt, giả nhân giả nghĩa…Bài ca vườn nho của ông là một lời cảnh báo
Bài đọc 2 (Pl 1,6-9) : Thánh Phaolô khuyến khích dân Philíp, các tân tòng, đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Những lời cầu nguyện tạ ơn và van xin giúp tâm và trí họ gắn bó với Chúa Kitô. Họ sẽ sống gương mẫu, noi gương các tông đồ. Họ sẽ được bình an (cha Kevin O’Sullivan, The Sunday Readings, trang 346).
Cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu
tình thương Chúa thật là cao cả
vượt xa mọi công trạng
và ước muốn của con người
xin rộng tình tha thứ
những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng con
và thương ban những ơn trọng đại
lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ
Chúng con cầu xin
SUY NIỆM II
VƯỜN NHO CUỘC ĐỜI
Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
Đàn chiên và vườn nho là hai hình ảnh rất quen thuộc và thân thương với văn hóa người Do Thái. Cho nên, Chúa Giêsu luôn dùng những hình ảnh quen thuộc đó để nói lên quan điểm của Ngài đối với mối tương giao giữa Thiên Chúa và Israel, cũng như mối tương giao giữa Ngài đối với chúng ta. Chẳng hạn trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu nói rằng Chúa Cha là người trồng nho, Ngài là cây nho còn các môn đệ là ngành nho vậy các con phải sống gắn bó mật thiết với Thầy và chỉ qua Thầy chúng con mới đến được với Chúa Cha. Và hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn ông chủ vườn nho và các tá điền để nói về lòng tốt của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa không những sẵn sàng thuê mướn mọi hạng người mà còn trả công đồng đều cho cả những kẻ làm việc ít giờ nhất. Thiên Chúa quảng đại giao vườn nho cho những tá điền, những người quản lý có trách nhiệm canh tác vườn nho để giao nộp hoa lợi cho chủ. Nhưng họ đã phản bội, đã đánh đập các sứ giả và đã giết chết chính Người Con của Chủ. Và rồi, Ông chủ đã phải lấy lại vườn nho mà trao cho người khác quản lý, tức là Giáo Hội.
Dụ ngôn Đức Giêsu kể hôm nay trực tiếp nhắm vào các thượng tế và kỳ lão (những tá điền độc ác). Họ là những người được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn nho là dân riêng của Thiên Chúa. Nhưng thay vì mang hoa lợi về cho Thiên Chúa: sự tôn thờ Thiên Chúa, sống đúng Lời Thiên Chúa dạy, ngược họ lại tím quyền Thiên Chúa không vâng Lời Thiên Chúa, biến nhà Chúa thành nơi buôn bán, lấy chức quyền của mình tìm hoa lợi ấy cho mình thay vì mang lại bình an, hòa thuận và sự thánh thiện cho tha nhân. Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến là các ngôn sứ đều bị họ giết chết. Cuối cùng ngay cả Người con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu cũng bị họ đóng đinh và treo Người trên cây thập giá. Họ nghĩ rằng chỉ khi làm như vậy họ mới chiếm đoạt được trọn quyền thừa kế và hưởng lợi lộc từ vườn nho cuộc sống thế gian. Vì thế, cuối dụ ngôn Chúa Giêsu nói: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”. Dân ấy chính là Dân Thiên Chúa, là Hội Thánh.
Ý nghĩa cụ thể của dụ ngôn là như thế. Nhưng chúng ta cần nghiền gẫm câu chuyện để có thể lắng nghe được lời dạy của Thiên Chúa dành cho chính mình chứ không phải chỉ cho những người xa lạ thời xửa thời xưa. Như ông chủ trao phó vườn nho cho các tá điền, Thiên Chúa cũng tín nhiệm trao phó cho ta chăm sóc những vườn nho của Người. Vườn nho ấy là chính cuộc đời của riêng ta, đời sống đức tin của mình, gia đình, giáo xứ, Giáo phận mà ta đang sống, đang phải phục vụ, là những trách nhiệm mà ta phải hoàn thành. Ông chủ dựng hàng rào, xây tháp canh đó là điều răn của Chúa, giáo lý Hội thánh, sức khỏe, tài năng, tiền bạc vật chất của chúng ta… để bảo vệ đời sống đức tin mình khỏi lung lây hay tàn lụi, những phương tiện ấy để giúp cho công việc của mình được dễ dàng, nhờ đó chúng ta có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Khi trao cho ta những nhiệm vụ, Thiên Chúa cũng ban cho ta phương tiện là những ân huệ cần thiết để chúng ta thực hiện tốt công việc được trao sinh hoa lợi Chúa: sáng danh Chúa và mưu ích cho mình, gia đình mình và cho tha nhân chứ. Trao vườn nho rồi, ông chủ đi xa một thời gian. Ông tin tưởng các tá điền sẽ làm cho vườn nho sinh hoa kết trái. Thiên Chúa cũng tin tưởng ở chúng ta khi trao cho chúng ta Lời Chúa, những ân huệ, những trách nhiệm đối với chính mình và đối với tha nhân. Người không trực tiếp giám sát chúng ta như những anh công an nhưng cùng đi và làm với chúng ta. Người cũng không phải là một ông chủ chuyên chế áp đặt tự do và giết chết sáng kiến, ý chí nghị lực đức tin của chúng ta. Người tôn trọng tự do chúng ta như những người trưởng thành và để chúng ta tự do làm việc lành phước đức, lấy Chúa làm gia nghiệp, tự do thi hành ý Chúa, Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh để làm cho đời sống mình, gia đình và giáo xứ mình càng ngày càng thánh và thiện, càng sinh nhiều hoa trái: “bác ái, hoan lạc, bình an, đại lượng, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22).
Thế rồi, thời gian vắng nhà, những người tá điền đã giết chết các tôi tớ và ngay cả con trai của ông chủ. Hành vi này tượng trưng cho sự khước từ Thiên Chúa, khướt từ Lời Chúa Giêsu dạy, khướt từ lãnh nhận các Bí tích, khướt từ thi hành các điều Hội thánh dạy để rồi với tự do và sự kiêu ngạo của mình chúng ta lạc lối, tội lỗi và đức tin tàn lụi và cũng có thể dẫn bản thân mình đến chỗ thân tàn ma dại, mặc cảm tự ti, trầm cảm và tự tử. Rõ ràng trong bài đọc 1, Tiên tri Isaia nói: “Thiên Chúa mong con người sống công chính mà chỉ thấy toàn đổ máu; đợi chờ con người làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than”. Cụ thể hơn nữa, mới đây có một anh thanh niên đến gặp tôi, xin tôi cứu giúp anh vì anh đang bị sang chấn tâm lý và dẫn đến trầm cảm rất nặng, muốn tự tử. Anh kể rằng khi còn thiếu niên, thanh niên anh rất đạo đức tham gia giáo lý viên, ca đoàn nhưng các đây 4 năm anh đi làm ăn phương xa nên mọi chuyện đạo đức hầu nhưng chết lịm. Anh lao mình theo công việc tiền tài và danh vọng. Anh thành công rực rỡ, có tiền có tài nhưng không có Chúa và tha nhân trong đời anh nữa. Sự kiêu ngạo của anh đã giết chết Lời Chúa và giáo lý Hội thánh, sa nhà thờ nhà thánh luôn. Đùng 1 cái cách đây 4 tháng anh bị công ty sa thải mà không biết lý do gì. Bạn bè lừa gạt sạch tiền, không còn ai bên anh giúp đỡ anh. Cú sốc rất nặng làm anh buồn rầu, trầm cảm và có lần muốn tự tử chết cho rồi vì không còn hy vọng gì nữa. Một hôm cô bạn gái anh ở quê Tam kỳ gọi điện kể anh biết tôi hay giúp tâm lý cho người bị trầm cảm, anh về quê tìm đến tôi và xin tôi giúp anh. Thế là cách đây 2 tuần, anh đến với tôi, tôi nói anh bị hai bệnh: một bệnh kiêu ngạo, hai bệnh tâm lý nặng. Trước hết anh xưng tội, rước lễ và đi lễ thường xuyên rồi chữa trị tâm lý trị liệu từ từ với cha nhé. Anh đi xưng tội và rước lễ trong ngày đó tại quê nhà, chiều về anh gọi điện thoại nói cái đầu con nhẹ hẳn, và cảm giác như người bình thường ngủ ngon nhưng còn mặc cảm với gia đình bạn bè và lối xóm. Tôi nói cần một thời gian anh mới hòa nhập và với bệnh tâm lý anh nhờ ơn Chúa anh kiên trì, có ý chí nghị lực tập luyện từ từ sẽ hết.
Ngẫm dụ ngôn Chúa dạy hôm nay là bài học rất chí lý và thiết thực cho đời sống đức tin và thường ngày của chúng ta, cho nên, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống tốt lành, năng cầu nguyện cùng Thiên Chúa và chuyên tâm thực hành lời Ngài dạy: “Những gì chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen, thì xin anh chị em hãy để ý thực hành”. Khi thực hành như thế, sự bình an, hạnh phúc của Chúa sẽ ở với chúng ta. Và những thực hành đó sẽ giúp chúng ta kết hợp với Đức Giêsu và sự bình an, hạnh phúc, sự thánh thiện đích thực của Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Ngài.
Kính thưa anh chị em, chúng ta đã bước vào tháng Mân Côi. Mỗi khi Đức Mẹ hiện ra tại một nơi nào, Mẹ thường gửi đến cho nhân loại thông điệp sám hối và siêng năng lần hạt kinh Mân Côi. Vậy, trong tháng này, chúng ta hãy suy niệm kinh Mân Côi với tâm tình của Đức Mẹ, để qua Đức Mẹ, chúng ta đến với Chúa Giêsu. Và nhờ Hai mươi mầu nhiệm Mân Côi giúp chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, đồng thời xin Chúa giúp chúng ta sống sự khiêm nhường, vâng lời và phó thác vườn nho cuộc đời mình vào sự yêu thương quan phòng của Thiên Chúa và mau mắn thi hành thánh ý và Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời hầu Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, hạnh phúc, thánh thiện sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Amen.
SUY NIỆM III
VƯỜN NHO LÀ CỦA THIÊN CHÚA
(Hội An 8/10/2023)
Lm. Giuse Nguyễn Văn Thú
Cây nho và vườn nho được dùng theo lối nói ẩn dụ trong truyền thống Do Thái và hôm nay, chúng được nói đến trong cả bài Cựu ước lẫn Tin Mừng.
- Vườn nho ngày xưa
Trong sách ngôn sứ Isaia, Israel được xem là vườn nho của Thiên Chúa, Thiên Chúa là chủ vườn nho. Ngài làm đất, Ngài trồng, chăm sóc và mong thu hoạch được nho ngon ngọt. Nhưng dù ở trong điều kiện tốt cho việc sinh hoa trái tốt, vườn nho Israel chỉ sinh nho dại!
Chúng ta nhớ lại dụ ngôn người thợ làm vườn nho. Mọi người Israel đều được mời gọi vào làm vườn nho. Ông chủ nhẫn nại bốn lượt, năm lần mời gọi họ vào làm việc. Công việc của họ là chăm sóc cho vườn nho tươi tốt, sinh trái ngon. Thế mà lại có người phàn nàn ông chủ đối xử không đẹp. Phải chăng vì sự phản kháng đó mà dần dần những người thợ làm vườn nho trở nên những kẻ thay vì chăm sóc vườn nho thì đã phá nát vườn nho, khiến nó chỉ sinh nho dại?
Lịch sử dân Israel là lịch sử vừa được phủ đầy ân huệ Thiên Chúa, vừa là lịch sử của những kẻ từ chối Thiên Chúa. Trong vườn nho Israel, những nhà lãnh đạo hướng dẫn dân Chúa trung thành với luật của Israel, từ chối nghe lời Thiên Chúa, chống lại các ngôn sứ Chúa gởi đến, không chấp nhận sứ mạng của Gioan Tẩy Giả và của Chúa Giê-su. Chúa Giê-su đã dùng dụ ngôn diễn tả rất phong phú lịch sử Israel. Các đầy tớ là các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến thu hoạch hoa lợi vườn nho, nhưng Israel bắt bớ và giết chết họ. Sau cùng, Thiên Chúa sai người Con Một là Chúa Giê-su đến, họ đã giết Ngài ngoài thành Giêrusalem.
Đây là câu chuyện buồn trong lịch sử vườn nho Israel. Nhưng đây còn là câu chuyện của lòng Chúa thương xót. Ngài không ngừng chương trình cứu độ của Ngài. Ngài tạo một vườn nho mới trên thế giới này là Giáo Hội.
- Vườn nho ngày nay
Thiên Chúa vẫn là Chủ vườn nho Giáo Hội. Không có điều gì cần cho vườn nho mà Chủ vườn nho không làm. Thiên Chúa cho Giáo Hội Lời của Ngài, các bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Thể là Thân Mình Ngài. Thiên Chúa còn ban cho Giáo Hội các đầy tớ của Ngài là các thừa tác viên Lời Chúa và thừa tác viên bí tích, để vườn nho gồm Giáo Hội và các thành phần phục vụ sứ mạng truyền giáo.
Qua nhiều thế kỷ, Giáo Hội chăm sóc vườn nho của Chúa, cũng làm bồn ép nho, xây tháp canh, rào vườn v.v, gặt hái nhiều kết quả truyền giáo. Không thể phủ nhận nỗ lực của bao tín hữu trong vườn nho Giáo Hội, đặc biệt các vị tử đạo dùng mạng sống mình tuyên xưng đức tin và trung thành với lời Chúa. Nhưng vườn nho của Chúa hôm nay thì sao? có gì đáng lo?
Nếu điều tệ hại nơi những người làm vườn nho Israel xưa là tưởng chủ vườn nho đi xa, còn nay mình là chủ vườn nho nên đã thiết lập những tiêu chí riêng dẫn dắt mọi người và gạt bỏ những điều không phù hợp với họ, thì đang có cuộc khủng hoảng đó trong Giáo Hội hiện nay. Không thể phủ nhận có nhiều chia rẽ trong vườn nho Chúa ngày nay. Có nhiều người phủ nhận giá trị truyền thống tông đồ, cho rằng mỗi thời phải thích nghi đáp ứng theo đòi hỏi của thời đại. Họ cho rằng họ là chủ vườn nho Giáo Hội nên gạt bỏ giáo huấn cứu độ của Chúa. Họ chỉ trích giáo lý của Chúa được các tông đồ gìn giữ và truyền lại và họ lập ra cách sống mới mẻ xa lạ với giáo lý được các Công Đồng truyền đạt. Thượng hội đồng giám mục về tính đồng nghị đang diễn ra không phải trong bối cảnh chia rẽ đó sao? Đó là lý do Giáo Hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cho những người có trách nhiệm trong vườn nho Giáo Hội ngày nay khiêm cung trở lại với Chúa và trở về vị trí người thợ làm vườn nho, chứ không phải chủ vườn nho Giáo Hội, để trước hết chính họ là những người gìn giữ và sống giáo lý của Chúa trước khi giảng dạy người khác vâng theo lời Chúa. Chúng ta đang tái diễn cảnh các tá điền làm trong vườn nho Israel xưa sao?
Về phần chúng ta, những người thợ làm trong vườn nho Giáo Hội ngày nay, nếu không nhận ra cuộc khủng hoảng này trong Giáo Hội, chúng ta sẽ không cầu nguyện và xem đó như là một biến cố trong thế giới, chứ không là biến cố sống còn của Giáo Hội. Phúc cho ai nhận ra cuộc khủng hoảng trong đời sống Giáo Hội hôm nay, để không chỉ cầu nguyện mà còn sống cam kết với giáo lý của Chúa. Chúng ta được khuyên nhủ theo nguyên tắc của thánh Phaolô giữa cuộc khủng hoảng này, đó là với lời cầu nguyện và suy niệm, chúng ta biết đâu là điều thiện hảo và “những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền” chỉ tìm gặp nơi Thiên Chúa.
Chúa Giê-su đã chẳng nói Ngài là Cây Nho và Chúa Cha là người trồng nho đó sao? Cây Nho Giê-su phải được trồng và mọc lên giữa Giáo Hội, chứ không phải thứ nho dại nào. Bao tín hữu mọi thời đã trung thành kết hợp với Thân Nho Giê-su và sinh hoa trái như lòng Chúa mong muốn. Vậy, chúng ta tự hỏi, Giáo Hội có thể tìm gặp sự thánh thiện, ân sủng, bí tích và lời cứu độ ở nơi nào khác không? Tìm sự thánh thiện, ơn cứu độ ở nơi nào khác chỉ là thói lừa dối, mị dân và chối bỏ trung thành đức tin, bởi sự thánh thiện, ân sủng, bí tích và lời cứu độ của Chúa chỉ tìm gặp nơi Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ duy nhất.
Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho Thượng hội đồng giám mục về tính đồng nghị được trung thành với Chúa Giê-su.