Đọc Phi Năng Thi Tập Của Thánh Philipphê Phan Văn Minh
Khổng Thành Ngọc
WHĐ (8.7.2020) – Ngày 19 tháng Sáu 1988, tại Roma, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong 117 Chân phước Tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh.
Trong bài giảng Thánh lễ hôm ấy, Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh:
“Đối với chúng ta hôm nay, các vị tử đạo Việt Nam là những thợ gặt được nhắc đến trong Thánh vịnh: ‘Ai gieo trong nước mắt, sẽ gặt trong hân hoan. Lúc ra đi, nghẹn ngào vãi hạt; khi trở về, quảy lúa mừng vui’ (Tv 126, 5-6). Lời huyền nhiệm trên soi sáng cho chúng ta nhận ra ý nghĩa đích thực việc làm chứng của các vị tử đạo Giáo hội Việt Nam trong lịch sử. Trong nước mắt, hạt giống Tin Mừng và ân sủng đã nảy mầm, rồi từ đó cả một mùa hồng ân đức tin tràn trề, phong phú”.[1]
Mỗi vị trong 117 thánh tử đạo Việt Nam đều là một chứng từ sống động, đặc sắc về đức Tin, về giá trị Tin Mừng sự sống để lại cho hậu thế. Mỗi chứng từ đều hàm chứa thông điệp về sự đối thoại. Những thông điệp bằng máu. Kiên cường mà dịu dàng. Tráng liệt mà thiết tha. Dịu dàng tha thiết mời gọi đối thoại.
Đức Gioan Phaolô II nhận ra ý nghĩa của bức thông điệp bằng máu và nước mắt ấy:
“Khi ‘gieo trong nước mắt’, các vị tử đạo Việt Nam đã thực sự bắt đầu cuộc đối thoại sâu sắc và mang ý nghĩa khai phóng với con người và nền văn hóa của đất nước mình, trước hết bằng cách loan báo sự thật và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa, đồng thời đưa ra một bậc thang giá trị và nghĩa vụ, đặc biệt thích ứng với nền văn hóa tôn giáo của toàn thể thế giới Đông phương”.[2]
Kỷ niệm 30 năm ngày phong thánh 117 vị tử đạo Việt Nam, bài viết này như một dịp đọc lại và suy gẫm một nội dung rất đặc sắc trong bài giảng của Thánh Gioan Phaolô II tại lễ phong thánh: “các vị tử đạo Việt Nam đã thực sự bắt đầu cuộc đối thoại sâu sắc và mang ý nghĩa khai phóng với con người và nền văn hóa của đất nước mình”.
Đọc và suy gẫm dựa trên đối chiếu với dòng “ngôn chí” của một trong 117 vị tử đạo hiển thánh Việt Nam: Thánh Philipphê Phan Văn Minh, linh mục, tử đạo (1815-1853). Một vị thánh đã dấn thân vào “cuộc đối thoại sâu sắc và mang ý nghĩa khai phóng với con người và nền văn hóa của đất nước mình”.
Thánh Philipphê Phan Văn Minh & Phi Năng thi tập
Tiểu sử Thánh Philipphê Minh được ghi lại trên trang web của giáo phận Vĩnh Long, quê hương ngài, như sau:
“Thánh Philipphê Phan Văn Minh sinh năm 1815 tại họ Cái Mơn, thuộc Vĩnh Long trong một gia đình Công giáo đạo đức. Ngài được Đức Cha Taberd nhận vào Chủng viện Lái Thiêu 1828. Đến năm 1840 ngài được gởi học tại Đại Chủng viện Penang (Mã Lai). Sau sáu năm học tập và tu luyện, ngài trở về quê hương và thụ phong Linh mục vào năm 1846.
Vào cuối năm 1852, lệnh cấm đạo trở nên gắt gao, ngài phải vâng lệnh bề trên, đến trú ẩn tại họ Mặc Bắc, nhưng lại lãnh triều thiên tử đạo. Nguyên lúc ấy, có tên bếp Nhẫn say mê cờ bạc rượu chè, vì hy vọng vào tiền thưởng, nên đã đi báo quan đem quân về bắt Cha Phêrô Lựu, chánh sở Mặc Bắc. Không gặp được Cha Phêrô Lựu, quan quân lại bắt được Cha Minh trong đêm 25/2/1853, cùng với chủ nhà cho trú ẩn là ông Trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu và một số giáo dân nữa. Tất cả họ bị điệu về Vĩnh Long.
Trong ngục, ngài Philipphê Minh luôn luôn hãnh diện vì là linh mục và đầy lòng thương mến các bạn tù, dù phải chịu hình khổ và nhiều điều sỉ nhục. Vì không lay chuyển nổi đức tin sắt đá của ngài, các quan đã lên án “phát lưu ra Bắc” và đệ án về Kinh xin châu phê. Vua Tự Đức không nghe, truyền lệnh phải xử tử. Ngày 3/7/1853, ngài bị điệu đi xử trảm tại pháp trường Đình Khao (Vĩnh Long). Đức Thánh Cha Piô IX đã suy tôn Cha Philipphê Phan Văn Minh lên bậc Đáng kính ngày 27/09/1857. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã tôn phong ngài lên hàng Á Thánh ngày 27/5/1900 và ngày 19/6/1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn ngài lên bậc Hiển Thánh. Giáo phận Vĩnh Long và Chủng viện Vĩnh Long đã nhận thánh Philipphê Phan Văn Minh làm thánh Bổn mạng, và mừng lễ kính vào ngày 3 tháng 7”[3]
Những dòng tiểu sử trên đây là một bản ghi vắn tắt cuộc đời của thánh nhân. Trong khi đó, giới nghiên cứu văn hóa đã đặc biệt chú ý đến phần di cảo của ngài. Đó là những sáng tác thi ca được hai nhà nghiên cứu Võ Long Tê[4] và Phạm Đình Khiêm[5] sưu tập và phân tích trong bản thảo viết tay, năm 1989, nhan đề: “Phi Năng thi tập – Văn bản hiệu đính”[6].
Trong tác phẩm khảo cứu này, Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm giới thiệu Thánh Philipphê Minh là nhà ngữ học, nhà thơ, vị tông đồ, bậc tuẫn giáo.
Đặt tên Phi Năng thi tập cho di cảo thơ của Thánh Philipphê Minh, hai nhà nghiên cứu Công giáo có ý nhắc đến Chủng viện Penang (được dịch thành Phi Năng), Malaysia, nơi thánh nhân sáng bài thơ đầu tiên, đồng thời là nơi ngài theo học trước khi chịu chức linh mục.
Trong tập khảo cứu Phi Năng thi tập – Văn bản hiệu đính, Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm đã sưu tập được 35 bài thơ của thánh nhân và 100 bài thơ họa của các thi hữu và người hâm mộ. Khối lượng sáng tác này khiến hai nhà nghiên cứu gọi đây là “thi đàn của đức tin”.
Là “thi đàn của đức tin”, nhưng sâu xa hơn, Phi Năng thi tập chính là một “cuộc đối thoại”.
Cuộc đối thoại bên trong, giữa những người đồng đạo, và bên ngoài, với người chưa tin.
Cuộc đối thoại bên trong
Ngày 25-12-1842, tại Chủng viện Penang (Phi Năng), Malaysia, Thánh Philipphê Minh làm bài thơ “xướng” với đề tài Gia-tô Cơ- đốc[7]:
Bài “xướng” của Thánh Philipphê Minh như sau:
Gia-tô Cơ-đốc Đấng Con Trời,
Đặc cách lâm phàm cứu khắp nơi.
Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp,
Không dùng vương bá để xây đời.
Vâng lời thiên mệnh đành thân diệt,
Gánh tội nhân gian chịu máu rơi,
Dĩ nhược thắng cường mệnh chứng tỏ
Kiếp sau hiện hữu sống muôn thời.
Hưởng ứng bài thơ “xướng” của thánh nhân, có 46 bài họa: 44 bài của các tác giả Công giáo và 2 bài của ông Đồ Ốc, một người ngoài Công giáo.
Theo Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm, các tác giả Công giáo hưởng ứng họa lại bài xướng của Thánh Philipphê Minh gồm các bạn đồng song Chủng viện Penang và một số giáo hữu tại những nơi thánh nhân làm mục vụ.
Xin điểm mấy bài “họa”, hợp vận “trời-nơi-đời-rơi-thời của bài “xướng”:
- Bài họa của Paulus Hơn:
Lật ngược đố ai cãi luật Trời,
Gia-tô Cơ-đốc dạy khắp nơi.
Nước Trời chớ kể quê hư kiếp,
Cuộc thế phải đâu chốn sống đời.
Kẻ chối như rừng chang nắng đốt,
Người tin tợ lúa gội mưa rơi.
Soi gương kim cổ trong thiên hạ,
Nhận thức thị phi, sống kịp thời.
Bài xướng của Thánh Philipphê Minh nêu sứ mệnh của Chúa Giêsu “đặc cách lâm phàm cứu khắp nơi”, và phương cách cứu thế của Người là tuyệt đối vâng phục Chúa Cha, không cậy dựa những phương thế trần gian: Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp – Không dùng vương bá để xây đời – Vâng lời thiên mệnh đành thân diệt – Gánh tội nhân gian chịu máu rơi.
Bài họa của Paulus Hơn đồng tình với bài xướng, đồng thời phát triển ý kết (Kiếp sau hiện hữu sống muôn đời) của bài “xướng”, đưa lên hai cặp thực và luận: “Nước Trời chớ kể quê hư kiếp – Cuộc thế phải đâu chốn sống đời – Kẻ chối như rừng chang nắng đốt – Người tin tợ lúa gội mưa rơi”, để làm ý chính của toàn bài: hãy tin vào Nước Trời, như vậy, sẽ sống cuộc đời đầy ân phúc như “lúa gội mưa rơi”.
Bài họa của Paulus Hơn không chỉ là bài thơ hưởng ứng, mà còn diễn tả sự xác tín với lời lẽ mạnh mẽ: chớ kể, phải đâu; lối so sánh nhằm khẳng định một cách quả quyết và dứt khoát: như rừng chang nắng gội, tợ lúa gội mưa rơi.
- Bài họa của Andreas Phong:
Khôn giỏi làm sao khỏi lẽ Trời,
Cái vòng luẩn quẩn diễn đòi nơi.
Lớp xây lớp phá, xây xây mãi,
Sự nhục sự vinh, để để đời.
Dục vọng dễ gì người dứt bỏ,
Kiêu căng khó thể kẻ buông rơi.
Từ trời sức sống Gia-tô xuống,
Trợ lực nhân sinh thoát họa thời.
Nếu Paulus Hơn nêu sự hơn-thiệt khi đem so kẻ tin và người chối, thì Andreas Phong nhấn mạnh ơn cao trọng mà biến cố “lâm phàm” -xuống thế làm người- của Chúa Giêsu mang đến cho “nhân sinh”. Ơn cao trọng ấy chính là giúp con người chiến thắng “dục vọng” và sự “kiêu căng”, hậu quả của tội nguyên tổ mà con người vốn bất lực, không thể “dứt bỏ” và “buông rơi”.
Bài thơ “họa” của Andreas Phong đã góp phần hưởng ứng bài “xướng”, làm rõ một khía cạnh của biến cố “lâm phàm”: giải thoát con người khỏi những dục vọng. Chỉ nhờ ơn Chúa, nhờ “sức sống Gia-tô”, con người mới gỡ bỏ được mọi xiềng xích dục vọng.
- Bài họa của Joseph Thăng:
Yếu đuối ngày đêm cậy có Trời,
Ai che cũng chịu miễn yên nơi.
Bôn ba cho lắm khôn hai kiếp,
Xảo quyệt bao nhiêu cũng một đời.
Bạo phát bạo tàn, đừng tưởng bở,
Trời sinh Trời dưỡng, há buông rơi.
Tuồng nào chẳng có hồi chung kết,
Mặc kẻ trèo cao, kẻ ngược thời.
Cũng trong mạch hưởng ứng, đồng tình với bài thơ “xướng”, bài “họa” của Joseph Thăng hướng vào thói thường tình của người đời: thích “trèo cao” nên chẳng ngại “bôn ba” và sẵn sàng “xảo quyệt”.
Joseph Thăng nhắc mọi người nhớ “khôn hai kiếp”, nghĩa là chỉ có một cuộc đời để sống. Không ai có thể sống hai kiếp người. Và sẽ có lúc phải dừng lại: “Tuồng nào chẳng có hồi chung kết”! Nên hãy tin vào Chúa. Ngài chẳng bỏ rơi những kẻ tin tưởng: “Trời sinh, Trời dưỡng, há buông rơi”. Vì thế, đừng bôn ba, chớ xảo quyệt, cũng đừng ham trèo cao trong cuộc sống trần thế này.
- Bài họa của Jacobus Tiên:
Thương người nghèo khổ sống ngoài trời,
Gió thét mưa gào chẳng chỗ nơi.
Mang nặng đọa đầy vì thói thế,
Nếm nhiều cay đắng bởi tình đời.
Noi gương Cơ-đốc: lành tuân giữ,
Nhớ nghĩa Gia-tô: hận bỏ rơi.
Thánh giá: ngọn đèn soi bể khổ,
Cho thuyền cập bến được phùng thời.
Cảm nhận bài “xướng” của Thánh Philipphê Minh, Jacobus Tiên lý giải tình cảnh “mang nặng đọa đầy” và “nếm nhiều cay đắng” của những “người nghèo khổ sống ngoài trời”. Theo tác giả, sở dĩ như thế là “bởi tình đời” và “vì thói thế”. Thói thế và tình đời với những nghi kỵ, bè phái, cục bộ, lấy oán trả oán, tham lam, ích kỷ, ăn miếng trả miếng…
Từ đó, Jacobus Tiên kêu gọi: Noi gương Cơ-đốc: lành tuân giữ – Nhớ nghĩa Gia-tô: hận bỏ rơi.
Làm việc lành và không thù hận, đó là sứ điệp của Cơ-đốc Gia- tô, Chúa Kitô Giêsu. Thập giá, vốn là biểu tượng của thứ “công lý” trả thù tàn bạo, đã trở thành “Thánh giá: ngọn đèn soi bể khổ”, dấu chỉ của nguồn cứu độ.
Hơn một trăm năm sau, Đức Gioan Phaolô II, vị mục tử của Giáo hội Công giáo, đã nói với toàn thế giới trong ngày phong thánh cho 117 vị tử đạo Việt Nam: “Khi ‘gieo trong nước mắt’, các vị tử đạo Việt Nam đã thực sự bắt đầu cuộc đối thoại sâu sắc và mang ý nghĩa khai phóng với con người và nền văn hóa của đất nước mình, trước hết bằng cách loan báo sự thật và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa, đồng thời đưa ra một bậc thang giá trị và nghĩa vụ, đặc biệt thích ứng với nền văn hóa tôn giáo của toàn thể thế giới Đông phương”.
Quả thật, bài “xướng” Gia-tô Cơ-đốc, Đấng Con Trời của Thánh Philipphê Minh đã thu hút được sự hưởng ứng qua 44 bài thơ của ít nhất 23 thi hữu được biết tên[8]: Paulus Hơn, Andreas Phong, Joseph Thăng, Jacobus Tiên, Lucas Hầu, Thomas Linh, Thomas Phan, Thadaeus Lân, Thadaeus Lan, Petrus Ngân, Andreas Bường, Paulus Ngọc, Joseph Thời, Simon Chương, Joseph Hiền, Marcus Chân, Bartholomeus Khôi, Ioannes Rạng, Matthaeus Quờn, Ngô Phiên Đạt, Téphane Trần Đức, Petrus Thoại, Nguyễn Huy Vân, và một số vị khuyết danh[9].
Cuộc xướng-họa thơ tạo nên một “thi đàn của đức tin”, theo cách nói của Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm. Thi đàn này chính là một cuộc đối thoại bên trong, giữa những đồng đạo và đồng song. Một cuộc đối thoại nhằm quảng diễn ý nghĩa cuộc đặc cách lâm phàm của “Gia-tô Cơ-đốc, Đấng Con Trời”. Cuộc lâm phàm của Đấng là Đường, Sự Thật và Sự Sống, Đấng “hoằng khai nguồn cứu rỗi” (bài Vịnh Ê vang – Thánh Philipphê Minh).
Phải chăng, chính thi đàn của đức tin, cuộc đối thoại bên trong, cũng đã là tấm gương phản chiếu thế giới nội tâm của những đồng đạo, đồng song tham gia thi đàn. Và suy rộng ra, của cộng đoàn những đồng đạo. Đó là thế giới tinh thần với những xác tín cá nhân vào “nguồn cứu rỗi” đã được Chúa “hoằng khai”.
Cuộc đối thoại bên ngoài
Thi đàn do Thánh Philipphê Minh khởi xướng còn thu hút người bên ngoài. Đó là các thi hữu không đồng đạo.
Tiêu biểu là thi hữu Đồ Ốc.
Hai nhà sưu tập Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm, dựa vào bản sao của ông Thaddaeus Nguyễn Văn Nhạn, chép lại thủ bút Thánh Philipphê Minh, và dựa vào truyền khẩu do ông Paulus Nguyễn Cang Thường, một nhà báo, chủ bút tờ Tông Đồ, ghi lại, đã cho biết ông Đồ Ốc là một thầy đồ dạy học và bốc thuốc chữa bệnh ở vùng Ba Tri (Bến Tre). Một lần đến Ba Giồng (Mỹ Tho) bốc thuốc, ông gặp Thánh Philipphê Minh và được ngài mời họa bài thơ của mình.
Đồ Ốc nhận lời và làm hai bài thơ “họa”:
Thế gian vạn sự nói do Trời,
Nhưng tại làm sao khổ khắp nơi?
Cứu khổ đã nêu bên đạo Chúa,
Giải nguy chưa thấy phía người đời.
Triều đình Nam quốc xô không ngã,
Đạo trưởng Tây phương bám chẳng rơi.
Đã đẩy giáo nhơn vào thế khổ,
Vậy ai phải chịu bất tri thời?
Khác với các thi hữu đồng đạo đã “họa” thơ theo lối đồng thuận, bài của Đồ Ốc lại theo lối họa nghịch. Ông đưa ra phản đề:
Thế gian vạn sự nói do Trời,
Nhưng tại làm sao khổ khắp nơi?
Nếu nói Chúa dựng nên mọi sự tốt lành, sao đau khổ lại có mặt khắp nơi?
Và đau khổ hiện thời lại rơi vào chính những người tin và rao giảng đạo “cứu khổ”.
Họ đang chịu hai nguồn khổ: Khổ vì triều đình bách hại. Khổ do bị “Đạo trưởng Tây phương bám chẳng rơi” và “Đã đẩy giáo nhơn vào thế khổ”.
Đồ Ốc kết luận: “Vậy ai phải chịu bất tri thời?” với hàm ý: đừng để các đạo trưởng Tây phương “bám chẳng rơi”, rồi “giáo nhơn vào thế khổ”. Đó mới là “tri thời”, nghĩa là thức thời, biết nhận định đúng thời cuộc.
Thánh Philipphê Minh làm bài thơ đáp lại Đồ Ốc:
Cai trị thế gian luật của Trời,
Có yên có khổ cũng tùy nơi.
Tranh danh: oán hận do người thế,
Giành lợi: chiến tranh tại thói đời.
Thuốc bổ vào người sinh thuận, nghịch,
Đạo ngay nhập thế có xuôi, rơi.
Xưa nay đau khổ do tham vọng,
Lịch sử chứng minh kẻ thức thời.
Ngay câu phá đề (câu 1), thánh nhân nêu rõ quan điểm của mình. Một quan điểm quán xuyến bài thơ đáp: Cai trị thế gian luật của Trời. Qua luật của Trời, Chúa cai trị thế gian. Mãi mãi là như thế.
Vì thế, yên hay khổ là do tuân hay bất tuân luật Trời. Những biểu hiện của bất tuân luật Trời là: tranh danh, giành lợi, tham vọng. Còn tuân theo luật Trời, thì không để cho danh, lợi, tham vọng tác động vào nhận thức, phán đoán, hành động.
Đồng thời “Đạo ngay” thì không căn cứ vào thuận hay nghịch, xuôi hay rơi, nghĩa là không căn cứ vào hoàn cảnh bên ngoài: thuận lợi hay khó khăn, được chấp nhận hay bị chống đối. Thánh Philipphê đưa chứng cứ dựa trên chính kinh nghiệm bốc thuốc trị bệnh của Đồ Ốc: Thuốc bổ vào người sinh thuận nghịch. Thuốc bổ hữu hình, vốn ai cũng biết tác dụng, mà còn sinh thuận-nghịch đối với cơ thể, huống chi loại thuốc thiêng liêng! Chắc chắn loại thuốc thiêng liêng này, nếu có kẻ nhận người chống, thì cũng là lẽ thường tình. Người thức thời là người nhận biết và an nhiên với lẽ thường tình Đạo ngay nhập thế có xuôi, rơi ấy.
Nhận được bài thơ đáp của Thánh Philipphê Minh, ông Đồ Ốc viết bài họa. Cuộc xướng-họa-đáp bắt đầu sôi nổi. Bài họa này quyết liệt hơn lần trước:
Đau khổ xưa nay vốn tại Trời,
Thất mùa, ôn dịch khắp nơi nơi.
Thủy tai chôn lấp bao nhiêu mạng,
Địa chấn nát tan mấy cuộc đời.
Khổ đó, con người làm chẳng được,
Nạn này, Tạo hóa trút đầy vơi.
Thiên tai đại nạn Trời làm cả,
Nhân loại chỉ gây giặc nhứt thời.
Đồ Ốc tập trung vào phản đề. Rất quyết liệt:
Đau khổ xưa nay vốn tại Trời,
Thất mùa, ôn dịch khắp nơi nơi.
Đồ Ốc dứt khoát cho rằng ông Trời là nguồn mọi khổ ải: “Đau khổ xưa nay vốn tại Trời”. Những bằng chứng ông đưa ra là những “thủy tai”, “địa chấn”, được dân gian gọi là “thiên tai”, đều do trời làm ra.
Còn con người, dứt khoát “làm chẳng được” những đại họa ấy. Có chăng, chỉ gây nhân họa, tức giặc giã, thì cũng chỉ nhất thời: “Nhân loại chỉ gây giặc nhứt thời”.
Như vậy, phản đề lần đầu của ông Đồ Ốc thuộc loại thời cuộc chính sự, còn lần này liên quan chuyện đức tin, đạo lý. Lớp nghĩa tường minh của bài thơ: chỉ thấy ông Trời gây khổ “Thiên tai đại nạn Trời làm cả”. Và ẩn bên dưới, là hai lớp hàm ý. Lớp (1): chưa nghe Trời cứu khổ bao giờ! Và lớp (2): Đừng nói về đạo cứu khổ nữa!
Thánh Philipphê Minh liền trả lời bằng bài thơ “đáp”:
Sống ở thế gian chẳng khỏi Trời,
Khác nào loài cá khắp nơi nơi.
Sông sâu khỏe xác, tha hồ lội,
Sông cạn phơi thây, há trách đời.
Cá có oán sông lên hoặc xuống,
Mình không biết nước lớn hay vơi.
Dĩ nhiên phải chịu vì không biết,
Thượng bất oán Thiên, lẽ thức thời.
Thánh nhân nhẹ nhàng trả lời nỗi “oán thán” của Đồ Ốc bằng hình ảnh cá và nước. Cá thức thời thì tìm đến sông sâu. Không thức thời thì đến chỗ cạn. Sông sâu thì khỏe xác, tha hồ lội. Sông cạn thì phơi thây, há trách đời.
Đồng thời, thánh nhân cũng biết thức thời là việc không dễ. Làm sao cá biết được nước lớn hay vơi. Chuyện lớn-vơi của nước lệ thuộc nhiều yếu tố. Tất cả đều thuộc quyền trời: Sống ở thế gian chẳng khỏi Trời. Và như thế, đành phải chịu bó tay vì không biết.
Con người trước thiên tai cũng như cá gặp lúc sông cạn. Cá bơi đến chỗ cạn, không thể trách cứ sông. Con người gặp thiên tai, chẳng nên oán thán trời.
Như vậy, có chăng, chỉ còn lại vấn đề: làm sao đạt đến sự thức thời?
Đạt được thức thời, là cả một hành trình tìm kiếm. Dù vậy, khởi đầu vẫn là đừng trách trời, oán thiên: Thượng bất oán Thiên, lẽ thức thời.
Thánh Philipphê Minh mượn câu của Khổng Tử trong sách Trung Dung: “Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu nhân” (Trên đừng oán Trời, dưới đừng trách người), để mời gọi Đồ Ốc (hẳn là một nhà Nho) hãy bắt đầu từ lẽ “trung dung”, sống bình tâm, an nhiên và dưỡng chí thức thời.
Hẳn Thánh Phan Văn Minh có ý chờ đợi các bậc thức giả, khi đã biết dưỡng chí, sẽ có lúc phùng thời và đạt đến thức thời. Niềm khắc khoải đối với chân lý là mảnh đất thuận lợi cho hạt giống sự thật được nảy mầm vậy.
Cách đối đãi mềm mỏng, tương kính và kiên trì của Thánh Philipphê Minh đã khiến Đồ Ốc cảm động và thán phục. Võ Long Tê và Pham Đình Khiêm dẫn lại trần thuật của Paulus Nguyễn Cang Thường:
“Đồ Ốc thán phục Phan Văn Minh là người giỏi thơ và sở học rộng rãi, am hiểu kinh sử. Khi trở về Giồng Găng (Ba Tri), Đồ Ốc không quên giới thiệu với các bạn quen về linh mục Phan Văn Minh.
Năm 1850, linh mục đến họ Cái Bông (một họ đạo nằm trong huyện Ba Tri) giúp bổn đạo, có cho người đến Giồng Găng tìm tin tức Đồ Ốc, nhưng lúc đó Đồ Ốc đã liệt nặng. Linh mục tính sáng hôm sau đến thăm người bạn trước đây. Chẳng may đêm ấy, được tin cấp báo, lính huyện kéo lên vây xã An Ngãi (tức vùng nhà thờ Cái Vông (Cái Vồn?) để bắt linh mục. Đêm ấy, bổn đạo bí mật đưa ngài qua xóm Giồng Chàm, đạp đường rừng đến sông Ba Lai… Sau đó vượt sông Tiền, tạm ẩn nơi họ Rạch Cầu.”.
Từ đó đến khi chịu tử đạo (1853), thánh nhân và ông Đồ Ốc không có dịp nào được gặp gỡ, chuyện trò và xướng họa thi ca nữa.
Tuy vậy, qua hai bài thơ đáp họa, Thánh Philipphê Minh đã để lại kinh nghiệm đối thoại với người ngoài công giáo. Đối thoại bằng sự chân thành, thái độ tôn trọng, vận dụng khéo léo sở học rộng rãi và sự am hiểu sâu sắc kinh sử Đông – Tây.
* * *
Sau Phi Năng thi tập, tập thơ xướng-họa Gia-tô Cơ-đốc, Thánh Philipphê Minh còn hai tập thơ: Vịnh Ê-vang[10], gồm ba bài thơ về Phúc âm Matthêu của tác giả và 50 bài thơ vịnh của các tác giả khác, và tập Nước Trời ca gồm 29 bài thơ của thánh nhân.
Bài Điềm sau cùng, thi phẩm cuối cùng của tập Nước Trời ca, cũng là tác phẩm sau hết trong di cảo của thánh nhân, như dấu chấm hết của một đời thơ, và một đời làm chứng cho Tin Mừng. Bài thơ cảm hứng từ Matthêu 24, 14 và Marcô 13, 10:
Khi nghe ách nước tai trời
Xảy ra khắp chốn liên hồi đó đây
Cũng là biến cố xưa nay
Loài người chưa phải đến hồi cáo chung.
Nhưng khi thiên hạ các vùng
Ê-vang phổ cập đến cùng khắp nơi,
Muôn dân đủ các giống nòi
Thảy đều thấy rõ Nước Trời siêu nhân.
Bấy giờ chấm dứt thời gian
Đến thời Chung thẩm hạ màn thế gian.
Bài thơ, dấu-chấm-hết, như một đúc kết hành trình nội tâm của tác giả. Một hành trình được Tin Mừng thôi thúc và nhắm đích điểm là được tham dự vào biến cố “chấm dứt thời gian” khi thế gian này hạ màn sau khi Ê-vang phổ cập đến cùng khắp nơi. Đó là niềm khao khát đầy xác tín của một người trọn đời kêu gọi hãy sống “tri thời”, “thức thời” để được “phùng thời”, được bước vào sự viên mãn của thời gian.
Muốn vậy, hãy bền chí, như Đức Giêsu đã nói trong câu Mt 24, 13, ngay trước câu gợi cảm hứng sáng tác Điềm sau cùng: “Ai bền chí đến cùng, sẽ được cứu thoát”.
Thánh nhân đã bền chí.
Bền chí trong đối thoại. Bền chí trong bách hại.
Ngày 26-03-1853, lúc đang là cha sở họ Mặc Bắc (Vĩnh Long), ngài bị bắt cùng Thánh Trùm Lựu tại nhà vị thánh này. Ngày 3-07-1853, ngài bị trảm quyết tại Đình Khao (Vĩnh Long), còn Thánh Giuse Trùm Lựu chết rũ tù một năm sau, vào ngày 2-05-1854.
* * *
Đọc lại những vần thơ, ôn lại cuộc đời 38 năm của Thánh Philipphê Phan Văn Minh; và nhìn vào Giáo Hội Việt Nam đang bền chí nối gót các bậc tiền nhân, ngẫm câu thơ của thánh nhân, Lịch sử chứng minh kẻ thức thời, thấy thật chí lý!
30-05-2018
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 107 (tháng 7 & 8 năm 2018)
__________
[1] Dịch theo bản tiếng Ý, tại: http://www.vatican.va/content/john-paul-ii/it/homilies/1988/documents/hf_jp-ii_hom_19880619_martiri.html
[2] Dịch theo bản tiếng Ý, tại: http://www.vatican.va/content/john-paul-ii/it/homilies/1988/documents/hf_jp-ii_hom_19880619_martiri.html
[3] http://giaophanvinhlong.net/Trung-Tam-Hanh-Huong-va-Thang-Canh.html
[4] Võ Long Tê (1927-2017), nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học. Tác phẩm: Lịch sử văn học Công Giáo Việt Nam (1965), Dẫn nhập nghiên cứu tiếng Việt và chữ Quốc ngữ (xuất bản tại Pháp 1997)…
[5] Phạm Đình Khiêm (1920-2013), nhà nghiên cứu Công giáo. Tác phẩm: Tìm hiểu vấn đề xã hội (1958); Người chứng thứ nhất (1959); Minh Đức Vương Thái phi (1959); Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm quốc ngữ đầu tiên (1961)…
[6] Những dẫn chứng “Phi Năng thi tập” của Thánh Philipphê Phan Văn Minh trong bài viết này đều lấy từ bản thảo viết tay 1989 của Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm.
[7] tức Giêsu Kitô (cách phiên âm thời Thánh Philipphê Minh).
[8] Đa số tác giả ghi tên thánh theo Latinh.
[9] Theo Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm, các trường hợp “khuyết danh” là do thủ bút của Thánh Philipphê Minh được gia đình lưu giữ, nay đã cũ, không còn đọc rõ chữ.
[10] Ê-vang, phiên âm Evangelium (Phúc Âm)