Gợi Ý Mục Vụ Năm 2019 – Bài 3: Quy Luật Đồng Hành
Bài 3: QUI LUẬT ĐỒNG HÀNH: TIỆM TIẾN THEO THỜI GIAN
Trong khi đi đường người ta cần có luật, trong khi hành hương lề luật là chân lí vì thế tuyệt đối cần thiết. Như thế luật không phải là giới hạn mà là kim chỉ nam hướng dẫn để người ta đi đường không bị lạc. Lề luật bởi thế là một trợ giúp cho tự do của con người trong khi tìm kiếm ý nghĩa và hướng đi cho cuộc sống, hướng đến cùng đích là Thiên Chúa. Lề luật có vai trò như nguyên tắc cho mọi sự phân định cần thiết để cất bước hành trình.
Hội thánh khi đồng hành với con người ý thức rằng con người cần phải biết Lề luật của Chúa nói chung, nhưng điều đó không đủ, còn cần phải có một sự “đồng điệu” giữa con người và sự thiện hảo đích thực[1]. Hiểu như thế để tránh không rơi vào thái độ duy luật bóp chết mọi sáng kiến riêng tư trong khi tăng trưởng.
Trong khi liên hệ tới luật luân lí, có một luật đặc biệt quan trọng cho việc đồng hành, đó là “luật tiệm tiến”, vốn liên hệ tới khoa sư phạm nhằm giúp con người nhận thức luân lí từng bước và nội tâm hóa lề luật. Luật luân lí ấy không ngừng được khơi dẫn dọc dài cuộc đồng hành. Ý nghĩa của nó trong đồng hành là nền tảng cho cuộc lữ hành theo chân Chúa Kitô.
Luật tiệm tiến trong Đồng hành
Ta không được đồng nhất “luật tiệm tiến” với “sự tiệm tiến của luật” vốn được hiểu là có “những mức độ khác nhau và hình thức khác nhau của giới luật Chúa cho những người và hoàn cảnh khác nhau”[2]. Sự hiểu lầm ấy tai hại ở chỗ người ta thỏa hiệp qua việc thích ứng những đòi hỏi mệnh lệnh của giới luật với khả năng hạn hẹp chủ quan của con người. Kiểu như khi ta nói: giới luật này quá cứng rắn với bạn, nên tôi phải ban bố một giới luật khác cũng hiệu lực cho trường hợp của bạn. Làm thế có nghĩa là đã lấy khả năng con người làm thước đo của ân sủng, tức là rơi vào chủ nghĩa Pêlagiô. Giới luật Chúa thực ra không có trường hợp ngoại lệ. Vấn đề không phải là miễn chuẩn giữ một giới luật quá sức, bởi vì không giữ luật là con người đã bị kết án hại thân rồi; chính tội trọng làm tổn thương trước hết phẩm giá luân lí người phạm tội. Đức thánh cha Phanxicô xác nhận rằng «luật cũng là quà tặng của Thiên Chúa nhằm để chỉ đường, một quà tặng cho tất cả mọi người không trừ một ai để người ta có thể sống với sự trợ giúp của ân sủng»[3]. Lề luật không nên hiểu như một cái gì áp đặt từ bên ngoài, nhưng đúng hơn như là một hành trình nội tâm hướng đến sự thiện hảo.
Như thế, nói rằng không có trường hợp ngoại lệ đối với giới luật luân lí duy nhất có giá trị cho mọi người cũng có nghĩa là không có ai bị đặt ở bên lề cuộc đồng hành. Và bất kì sự đồng hành hay phân định nào «sẽ không bao giờ được phép bỏ qua những yêu sách của sự thật và bác ái theo Tin mừng như Hội thánh đề nghị» (AL 300). Sống những đòi hỏi của sự thật và bác ái là hệ quả của một sự hoán cải và tin vào Tin mừng Chúa Giêsu Kitô. Giữa tình trạng tội lỗi và sống trong Đức Kitô, như là giữa tình trạng chết và sống mà ta phải chọn, không có những mức độ khác nhau. Người phụ nữ Samaria được yêu cầu không chỉ thay đổi đời sống (rời bỏ tình trạng hiện tại sống chung ngoài hôn nhân của chị: “người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” (Ga 4,18)), nhưng trước hết là nhìn nhận Đức Kitô, nhờ Người chị thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật (cf. Ga 4,23-24). Chính đó là đời sống thật của chị, một đời sống không chấp nhận có thang cấp nhiều mức độ. Một khi đã đạt được chân lí sự sống, người ta mới bước lên con đường thăng tiến mỗi ngày trong tư cách một kẻ đang sống. Nơi chị phụ nữ Samaria, điều này có nghĩa là hoán cải trở thành chứng tá của Thiên Chúa trước các đồng bào của chị. Trong cuộc sống dưới ánh sáng lề luật này, ta thấy tất cả ý nghĩa của việc đồng hành là giúp đỡ con người trong quá trình thăng tiến trong ân sủng. Có ân sủng ban đầu giúp sức, ta có thể đáp trả tình yêu thương. Ở đâu có khát khao, ở đó có một mạch nước phun trào ra sự sống muôn đời (cf. Ga 4,14).
Tin vào quyền năng của ân sủng
Nếu chấp nhận có sự “tiệm tiến của lề luật” thì đồng hành trở thành vô nghĩa, vì người ta không còn xem ân sủng như khởi đầu của đồng hành, không còn xem hoán cải là trọng tâm và nên thánh là cùng đích nữa. Không cần hoán cải, không nên thánh nhờ ân sủng, đồng hành không còn là việc mục vụ nữa mà chỉ là một sự bầu bạn nhân loại hay liên đới mơ hồ nào đó thôi vì thiếu mục đích. Cần phải nhấn mạnh đến cùng đích vì đó là đặc trưng của tất cả tinh thần mục vụ. Chúng ta không được hiểu hình ảnh ví von Giáo hội như một bệnh viện dã chiến theo nghĩa Giáo hội chỉ lo chữa lành những vết thương cấp thời hiện tại của con người mà thôi. Kiểu mục vụ như thế cuối cùng sẽ thất bại thôi vì chỉ lo hoàn tất viễn ảnh thần linh bằng những việc phàm nhân hữu hạn. Trái lại, chúng ta phải luôn luôn nhắm tới việc nên thánh, và đừng bao giờ cho rằng sự thánh thiện là lí tưởng quá cao vời mà những người như chị phụ nữ Samaria kia không thể với tới được. Cùng với các Đức thánh cha chúng ta vẫn rất tin tưởng vào sức mạnh của ân sủng: «Tuy nhiên, một người đã kết hôn có thể sống mức độ cao nhất của đức ái. Vì thế, người ấy có thể “đạt tới sự hoàn thiện phát xuất từ đức ái, nhờ trung thành sống tinh thần các lời khuyên Phúc Âm. Sự hoàn thiện như thế là điều có thể và mọi người nam nữ đều có thể đạt được”[4]» (AL 160).
Câu hỏi gợi ý suy tư và thảo luận
- Anh chị hiểu lề luật Chúa để làm gì? Cách riêng, giới luật hôn nhân đơn nhất và bất khả phân li có ý nghĩa gì?
- Tại sao không thể chấp nhận sự “tiệm tiến của lề luật”? Đâu là ý nghĩa của khoa sư phạm của Thiên Chúa trong “luật tiệm tiến”?
- Tại sao không nhằm tới việc “nên thánh” là ta đã tự kết án mình?
- Anh chị có kinh nghiệm hay có biết một câu chuyện một người nào đã gặp gỡ Chúa và hoán cải trên đường nên thánh không?
Ủy ban Mục vụ Gia đình
[1] Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis splendor, 6/8/1993, 64.
[2] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 22/11/1981, 34.
[3] Phanxicô, Amoris laetitia (AL) 295.
[4] Gioan Phaolo II, Huấn giáo thứ tư (14.4.1982).