Hiểu Đức Giáo Hoàng Phanxicô Từ Bên Trong


LM Roger Landry

WHĐ (13.3.2023) – Chìa khóa tốt nhất để làm điều này là sự hiểu biết của Đức Phanxicô về lòng thương xót của Thiên Chúa.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã từng nói với George Weigel, tác giả cuốn sách Witness to Hope, rằng vấn đề đối với nhiều người viết tiểu sử trước đây là họ cố gắng “hiểu tôi từ bên ngoài. Nhưng tôi chỉ có thể được hiểu từ bên trong.”

Điều tương tự có thể được nói về Đức Thánh Cha Phanxicô và bởi chính Ngài, đó là nhiều người cố gắng tóm tắt Ngài bằng những suy luận dựa trên nhiều việc khác nhau mà Ngài đã làm: các chuyến du hành, cử chỉ, bài giảng, diễn văn, thông điệp, thư từ, cuộc hẹn, tông hiến, thông điệp, huấn thị, tự sắc, các văn kiện viết tay và nhiều điều khác nữa.

Tuy nhiên, làm thế nào để chúng ta hiểu rõ nhất về Ngài từ bên trong?

Chìa khóa tốt nhất để làm được điều đó là sự hiểu biết của Ngài về lòng thương xót của Thiên Chúa.

Vào chính thời điểm triều đại giáo hoàng của Ngài bắt đầu, khi Ngài chấp nhận cuộc bầu chọn của các hồng y anh em của mình 10 năm trước, Ngài đã không chỉ nói “Accepto – Tôi chấp nhận ”, vốn là cách mà các giáo hoàng thường đồng ý với cuộc bầu cử của các hồng y. Như Ngài đã nói trong phần đầu tiên của những gì đã trở thành nhiều cuộc phỏng vấn, Ngài nói với Cha Antonio Spadaro rằng Ngài đã trả lời bằng tiếng Latinh, “Tôi là một tội nhân, nhưng vì tin tưởng vào lòng thương xót và sự kiên nhẫn vô hạn của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta và trong tinh thần sám hối, Tôi chấp nhận.”

Khi Cha Spadaro hỏi Đức Thánh Cha Phanxicô trong cùng một cuộc phỏng vấn đó, “Jorge Mario Bergoglio là ai?” ngài trả lời: “Tôi là một tội nhân mà Chúa đã nhìn đến” với lòng thương xót. Ngài nói thêm, “Tôi luôn cảm thấy khẩu hiệu của mình, Miserando atque Eligendo (Thương xót và Tuyển chọn), rất đúng với tôi,” nghĩa là Chúa nhìn đến Đức Phanxicô với tình yêu thương xót, đã chọn ngài trước tiên làm tu sĩ và linh mục, sau đó là một giám mục, và cuối cùng là người kế vị Thánh Phêrô.

Vào ngày 21 tháng 9 năm 1953, mọi thứ trong cuộc đời Ngài đã thay đổi. Ngài dừng lại ở nhà thờ giáo xứ của mình và nhìn thấy một linh mục mà Ngài không biết, Cha Carlos Duarte Ibarra và, không cần suy nghĩ nhiều, Ngài đã xin cha giải tội cho mình. Ngài ra khỏi tòa giải tội năm phút sau đó, không có ý định trở thành một nhà hóa học nữa mà trở thành một linh mục. Ngài nhận ra rằng Thiên Chúa đã chờ đợi ngài trong tòa giải tội để đổ đầy lòng thương xót cho ngài và rằng, miserando atque eligendo, Chúa đã chọn ngài làm thừa tác viên của lòng Chúa thương xót cho người khác.

Niềm xác tín đó đã trở thành leitmotif – chủ đề chính trong cuộc đời Kitô hữu, linh mục và giáo hoàng của Ngài.

Trong một cuộc phỏng vấn dài thành sách năm 2010, El Jesuita, Hồng y Bergoglio nói rằng tư cách môn đệ Chúa Kitô đích thực bắt đầu với việc chúng ta nhận ra rằng chúng ta là tội nhân cần được cứu độ và đồng thời trải nghiệm rằng Đấng Cứu Độ nhìn chúng ta với tình yêu thương xót.

Ngài nói, “Đối với tôi, cảm thấy mình là một tội nhân là một trong những điều đẹp đẽ nhất có thể xảy ra, nếu nó dẫn đến những kết quả cuối cùng của nó. … Khi một người ý thức được rằng mình là một tội nhân và được Chúa Giêsu cứu … thì người ấy khám phá ra điều vĩ đại nhất trong cuộc đời, đó là có một người yêu thương mình sâu sắc, là người đã trao ban mạng sống của người ấy cho mình.”

Ngài than thở rằng thật đáng buồn là nhiều người Công giáo đã không có được kinh nghiệm Kitô giáo cơ bản này.

“Có những người tin vào những điều đúng đắn, những người đã học giáo lý và chấp nhận đức tin Kitô giáo theo một cách nào đó, nhưng lại không có kinh nghiệm về việc được cứu độ… và do đó họ thiếu kinh nghiệm về con người của họ. Tôi tin rằng chỉ có chúng ta, những tội nhân to tát mới có được ân sủng này.” Sau cuộc bầu cử của mình, Ngài nói thêm, “Chỉ những người đã được chạm vào và vuốt ve bởi sự dịu dàng của lòng thương xót của Chúa mới thực sự biết Ngài.”

Ngay từ những ngày đầu tiên trên cương vị giáo hoàng, ngài đã tìm cách mở rộng cả Giáo hội và thế giới ra để đón nhận ân sủng này. Trong bài giảng của mình tại nhà thờ giáo xứ Thánh Anna của Vatican vào ngày 17 tháng 3 năm 2013, và trong bài suy niệm từ cửa sổ phòng làm việc của mình trước đám đông 300.000 người, ngài đã nhấn mạnh điều mà ngài khám phá được vào ngày 21 tháng 9 năm 1953, rằng: “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ: Không bao giờ! Chính chúng ta là những người mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta hãy xin ơn không bao giờ mệt mỏi khi xin ơn tha thứ, bởi vì Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi ban ơn tha thứ của Ngài.”

Đức Phanxicô đã nói “toàn bộ Tin Mừng, toàn bộ Kitô giáo,” được chứa đựng trong niềm vui mà Thiên Chúa có được khi tha thứ cho chúng ta. Ngài nói: “Sứ mệnh sâu xa nhất của Chúa Giêsu là cứu chuộc tất cả chúng ta là những tội nhân.” “Tên” và “thẻ căn cước” của Chúa là lòng thương xót. Lòng thương xót là “thông điệp mạnh mẽ nhất” của Thiên Chúa. Đó là “chính nền tảng của đời sống Giáo hội” và là “nhiệm vụ chính yếu” của Giáo hội. Đó là “sức mạnh thực sự có thể cứu con người và thế giới.”

Vì những xác tín này, ngài đã triệu tập Năm Thánh Lòng Thương Xót vào năm 2015-2016 để giúp Giáo hội “tái khám phá ý nghĩa của sứ mệnh được Chúa trao phó cho Giáo hội vào ngày Phục sinh: trở thành dấu chỉ và khí cụ của lòng thương xót của Chúa Cha.”

Ngài đã viết hai tài liệu dành cho với Năm Thánh, Khuôn Mặt của Lòng Thương Xót và Lòng Thương Xót và Sự Khốn Cùng, cả hai đều là những bản tóm tắt đẹp đẽ về tâm điểm của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa trong đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Trong suốt Năm Thánh, Ngài đã thiết lập “Những Thừa Sai của Lòng Thương Xót,” ban đầu có khoảng 1.100 trong số 410.000 linh mục trên thế giới, để trở thành “những người rao giảng đầy sức thuyết phục về lòng thương xót” và là “những dấu chỉ sống động cho thấy Chúa Cha sẵn sàng đón nhận những ai tìm kiếm sự tha thứ của Ngài” nhờ vào việc các vị Thừa Sai này tận tụy nghe những lời xưng tội. Ngài ban cho họ những năng quyền đặc biệt trong tòa giải tội để có thể xóa bỏ những phạt vạ và chữa lành những tội lỗi, những năng quyền vốn thường chỉ dành cho Tòa thánh. Vào cuối năm thánh, Ngài đã mở rộng vô thời hạn các năng quyền của những thừa sai sẵn lòng; và trong tông hiến mới của Giáo hội (Praedicate evangelium) được công bố vào tháng 6 năm ngoái, Ngài đã biến các Thừa sai của Lòng thương xót trở thành một phần vĩnh viễn trong cấu trúc của Giáo hội.

Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Ngài đã quan tâm nhiều hơn đến những người cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa nhất, đến những người ở “các vùng ngoại vi hiện sinh”, đến một con chiên lạc, hơn là 99 người vẫn còn trong đàn. Ngài nhìn thấy điều này khi bắt chước Chúa, Đấng “có một sự yếu đuối nhất định là yêu thương những người ở xa nhất, những người bị lạc lối. Thiên Chúa đi tìm họ.”

Lòng ưu ái đó đôi khi là nguyên nhân gây hụt hẫng cho 99 người, những người đôi khi có thể cảm thấy bối rối hoặc bị bỏ rơi bởi một vị Giáo hoàng ưu tiên gặp gỡ các phóng viên không Công giáo, những người từ bỏ Công giáo, những người chỉ trích Giáo hội, các nhà hoạt động “LGBT”, các chính trị gia ủng hộ phá thai, các nhân vật thuộc hàng giáo sĩ ưa chỉ trích và những người khác nữa.

Tuy nhiên, Đức Thánh Cha Phanxicô rõ ràng tin chắc rằng, khi làm như vậy, Ngài đang đi theo sự dẫn dắt của Đấng mà ngài là đại diện trên trần gian. Ngài coi sự ưu tiên này là một phương tiện để gắn kết với những đứa con hoang đàng, dù là con trai hay con gái. Ngài viết trong Năm Thánh, “Chúng ta hãy luôn nhớ rằng Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân trở lại đàn chiên hơn là khi chín mươi chín người ngay chính không cần phải hối cải.”

Tuy nhiên, sự tập trung này vào con chiên lạc không có nghĩa là ngài không nhận biết về tội lỗi của họ, hoặc bằng cách nào đó lại chúc phúc cho tội lỗi của họ. Ngài thường xuyên phân biệt giữa những gì ngài gọi là “tội nhân” và “kẻ hư hỏng”. Tội nhân là những người nhận ra mình đã sa ngã và cần sự tha thứ của Thiên Chúa; “kẻ hư hỏng” là những người đã trở nên cứng lòng trong tội lỗi của mình đến nỗi họ không ăn năn và coi thói xấu là nhân đức. Ngài đã nhiều lần và quyết liệt kêu gọi những kẻ hư hỏng hoán cải chính là để họ có thể nhận được lòng thương xót.

Ngài đã viết, “Lòng thương xót tồn tại nhưng … nếu bạn không nhận ra mình là tội nhân, điều đó có nghĩa là bạn không muốn nhận được lòng thương xót đó.”

Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, ngài đã tìm cách biến lòng thương xót thành “một động từ”, bằng cách đón nhận và chia sẻ lòng thương xót. Giống như Thánh Gioan Phaolô II trước ngài, ngài ưu tiên cho việc nghe xưng tội. Ngài thường nói rằng ngài khao khát biết bao “được bước vào nhà thờ và ngồi lại tòa giải tội một lần nữa!” bởi vì ngài coi chức linh mục như một lời kêu gọi trở thành “thừa tác viên của lòng thương xót trên mọi sự.” Ngài thường xuyên kêu gọi các tín hữu Công giáo đến xưng tội và đừng sợ hãi.

Ngài đã nói rằng Giáo hội “trước hết được kêu gọi để trở thành nhân chứng đáng tin cậy cho lòng thương xót, tuyên xưng và sống lòng thương xót đó như là cốt lõi của mặc khải về Chúa Giêsu Kitô.” Ngài đã cố gắng trở thành kiểu chứng nhân đáng tin cậy đó trong suốt cuộc đời linh mục và triều đại giáo hoàng của mình.

Đó là cách tốt nhất để hiểu ngài từ bên trong, theo các hoàn cảnh riêng của ngài.

Phêrô Phạm Văn Trung
Lược dịch từ: ncregister.com (11.3.2023)