Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Cv 1,12-14; Gl 4,4-7; Lc 1,26-38)
Chúa nhật 26 Thường Niên năm nay vào đúng ngày lễ Mân Côi, ngày 7-10. Đây là ngày Đức Mẹ hiện ra lần sau hết, và là ngày Đức Mẹ xưng mình là Mẹ Mân Côi. Chúng ta đọc lại ngày hiện ra này. Đây là bản văn chị Luxia viết cho Đức cha giáo phân Fatima :
“Chúng con rời nhà sớm vì nghĩ thế nào cũng bị ngăn trở dọc đường. Dân chúng lũ lượt khắp nẻo đường. Mưa như trút nước. Má con cùng đi với chúng con, vì băn khoăn những gì sắp xảy ra, lo lắng như ngày tận số đời con.
“Dọc đường, những cảnh trí của tháng trước diễn lại cách cảm động và nhiều hơn. Dù đường lầy lội của cơn mưa bão không cản nổi người ta quì xuống trong tự hạ khẩn cầu. Sau khi tới gốc sồi ở Côva đa Iria, dưới thúc đẩy nội tâm con xin mọi người cụp dù xuống và lần hạt. Rồi chúng con thấy chớp sáng và Đức Mẹ hiện đến.
- Bà muốn con làm gì ?
- Ta muốn một nhà nguyện được xây cất ở đây để tôn kính Ta. Ta là Đức Mẹ Mân Côi. Hãy tiếp tục lần hạt hằng ngày. Chiến tranh sẽ chấm dứt và binh sĩ sẽ trở lại gia đình.
- Con có nhiều điều để xin Đức Mẹ : chữa một số bệnh nhân, hoán cải tội nhân và những chuyện khác…
- Được, một số sẽ được, nhưng không phải tất cả đều được. Họ cần cải thiện đời sống và xin ơn tha thứ mọi tội lỗi.
“Rất buồn sầu Đức Mẹ dặn tiếp :
- Đừng phạm đến Chúa nữa, vì Chúa đã bị xúc phạm nhiều rồi.
“Rồi mở tay ra, Đức Mẹ làm ánh sáng chiếu lên mặt trời. Khi Đức Mẹ cất mình lên, ánh sáng đó vẫn chiếu vào mặt trời.
“Thưa Đức cha, đây là lý do con hô lên cho người ta nhìn lên mặt trời. Con không có ý kéo chú tâm của mọi người đến mặt trời vì con cũng không ý thức họ hiện diện đó hay không. Con đã làm thế theo động lực bên trong.
“Sau khi Đức Mẹ đã biến đi, chúng con thấy bên cạnh mặt trời, thánh Giuse với Chúa Hài Nhi và Đức Mẹ mặc áo dài trắng và áo choàng xanh. Thánh Giuse và Chúa Hài Nhi ban phép lành cho thế giới, vì chúng con thấy tay hai Đấng vẽ hình Thánh Giá. Một lát sau, cảnh tượng đó biến mất và con lại thấy Chúa và Đức Mẹ, hình như Đức Mẹ đau thương. Chúa Giêsu ban phép lành cho thế giới cũng như thánh Giuse đã làm. Cảnh tượng này cũng biến mất, và một lần nữa con lại thấy Đức Mẹ giống như Đức Mẹ Camêlô.’
(Sự Lạ Fatima, Hồi Ký Chị Luxia, Nguyêt San Trái Tim Đức Mẹ 1990,trang 206)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Vào thế kỷ XII, Giáo hội khắp nơi, đặc biệt là nước Pháp bị tà giáo Albi (An-bi) phá hại đức tin. Tà giáo phủ nhận mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, nghĩa là Chúa Giê-su không phải là Thiên Chúa. Do đó tà giáo Albi cũng phủ nhận thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Mẹ. Giáo phái này cũng chống đối cơ chế giáo hội, và các bí tích. Các vua chúa thời ấy lo lắng và xin Giáo Hội trợ giúp. Đức Giáo Hoàng sai thánh Đaminh sang nước Pháp giảng đạo. Thánh Đa Minh được Đức Mẹ trao chuỗi Mân Côi làm phương thuốc để chữa bệnh Albi. Nhờ chuỗi Mân Côi không đầy ba mươi năm, lạc thuyết Albi tan biến, và các tín hữu quay trở về với đạo Chúa, trở về với đức tin.
BTM : Các lời trong kinh Kính Mừng là các lời trong sách Tin Mừng thánh Luca và trong các biến cố quan trọng của Giáo Hội.
– “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà” (Lc 1,28) là lời thiên thần chào kính Đức Mẹ.
– “Bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ” (Lc 1,42) là lời thánh nữ Ê-li-sa-bét chào kính Đức Mẹ.
– “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội” là lời các giáo dân thành phố Ê-phê-sô, nước Thổ Nhĩ Kỳ, tay cầm đuốc, miệng tung hô Đức Mẹ, khi công đồng Ê-phê-sô năm 43 tuyên bố Đức Mẹ là Mẹ Chúa Trời, chống lại bè rối A-ri-ô.
– “Khi nay và trong giờ lâm tử” là lời cầu của huynh đoàn thời thánh Đaminh. Huynh đoàn Đaminh được gọi là “Các Hiệp Sĩ Vui Tươi”, còn gọi là “Huynh Đoàn Chết Lành”.
Qua gốc tích các lời trong kinh Kính Mừng, kinh Kính Mừng rất có giá trị, đứng thứ hai sau kinh Lạy Cha.
Năm 1858 khi hiện ra ở Lộ Đức, nước Pháp, tay Đức Mẹ cầm chuỗi Mân Côi. Khi em Bê-na-đét-ta dọc kinh Sáng Danh thì miệng Đức Mẹ cũng đọc theo.
Năm 1917 khi hiện ra ở Fa-ti-ma, nước Bồ Đào Nha, Đức Mẹ đã khuyên người ta “siêng năng lần chuỗi”.
Bđ2 : Bđ2 thư viết cho giáo hữu Ga-lát ở Hy Lạp, thánh Phaolô đã tuyên xưng Đức Mẹ là Mẹ Chúa Giê-su như sau : “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đà sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ…hầu chúng ta nhận được ơn làm con cái” (Gl 4,4). Đức Mẹ là Mẹ Chúa Giê-su, thì kinh Kính Mừng của Đức Mẹ làm sao không giá trị.
Bđ1 : Bđ1 hôm nay đã kể lại biến cố Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đức Mẹ đã đóng một vai trò quan trọng trong biến cố này. Sách Công Vụ Tông Đồ kể : “Sau khi Đức Giê-su được rước lên trời, các tông đồ từ núi gọi là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem…Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện với…bà Ma-ri-a, thân mẫu Đức Giê-su” (Cv 1,12.14).
Với biến cố này, Đức Mẹ là Mẹ Giáo Hội, Đức Mẹ là Mẹ các con cái của Giáo Hội. Vì thế con cái nào đọc kinh kêu cầu Mẹ, làm sao Mẹ chẳng nhậm lời.
Quả đúng như thế. Hãy nhìn lại hai nơi ở Việt Nam Đức Mẹ hiện ra : La-vang và Trà Kiêu
Năm 1789, vì những cuộc bắt đạo thời Tây Sơn, đoàn con của Mẹ phải chạy trốn vào rừng thiêng La Vang. Vừa sợ bị gươm giáo giết hại, vừa sợ thú dữ và nước độc núi rừng, đoàn con cái của Mẹ chỉ biết chạy đến với Mẹ. Họ tập họp dưới gốc cây đa, lần chuỗi cầu khẩn Mẹ. Mẹ đã hiện ra. Mẹ rất vui vẻ và rất xinh đẹp. Mẹ mặc áo trắng và có ánh sáng bao quanh. Hai đứa trẻ xinh đẹp, mỗi đứa cầm một bó đuốc, đứng hai bên Mẹ. Mẹ đi đi lại lại nhiều lần trước mặt các con cái đang rất đỗi vui mừng. Chân Mẹ chạm đất như thể chiếm hữu mảnh đất đó làm của riêng cho Mẹ. Rồi Mẹ đứng lại, bằng một giọng rất dịu dàng, Mẹ nói : “Hỡi các con, các con hãy tin tưởng, các con hãy cam lòng chịu khổ. Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn cùng Mẹ ở chốn này, Mẹ sẽ nhậm lời ban ơn theo ý nguyện”. Rồi Mẹ căn dặn họ hái lá cây chung quanh để chữa bệnh. Nói xong, Mẹ biến đi, và một luồng sáng bao quanh Mẹ.
Mẹ hiện ra ở Trà Kiệu như sau : Năm 1885 quân Văn Thân đầy đủ súng đạn, có cả đại bác và voi trận tiến đánh. Giáo dân Trà Kiệu làm sao chống nổi. Họ đã lập bàn thờ Mẹ. Đốt nến hai bên. Lần chuỗi suốt ngày đêm van xin Mẹ. Mẹ đã hiện ra trên nóc nhà thờ, đứng hai bên Mẹ là hai đoàn thiên thần mặc áo trắng và đỏ. Mẹ đứng che chắn đạn quân Văn Thân bắn vào nhà thờ, và vào con cái Mẹ.
Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su quả quyết: “Với kinh Mân Côi, người Công giáo xin gì cùng Chúa, Chúa cũng nhận lời” (6-10-2013)
——————————————————————
Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Chúng ta bắt đầu vào tháng Đức Mẹ, tháng Mân Côi. Đầu tháng Mân Côi là lễ thánh Têrêsa Hài Đồng. Con đường nên thánh của thánh nữ được mệnh danh là “con đường nhỏ”.
Khi nghĩ đến những vị thánh như Phaolô, Âutinh, Phanxicô Xaviê, chị Têrêsa run sợ. Chị chỉ là “hạt cát chẳng ai biết đến”. Còn các thánh là những ngọn núi cao ngất ngưởng.
Thánh Têrêsa đọc những tập vở mà chị Céline, chị ruột của mình, đã chép lại những câu Kinh Thánh. Thánh Têrêsa bắt gặp được câu này trong sách Châm Ngôn : “Hỡi người bé nhỏ hãy đến với Ta” (9,4) và câu trong sách ngôn sứ Isaia : “Các ngươi sẽ được ẵm vào lòng, được nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy” (66,12-13).
Thời đó người ta đã phát minh ra thang máy. Chị sang Rôma đã được đi thang máy. Nên khi tìm được con đường nên thánh “nhỏ”, chị đã sung sướng reo lên : “Đây là chiếc thang máy nên thánh”. Chị nên thánh bằng cuộc sống nhỏ bé của một chị dòng kín, với những công việc bổn phận, những hy sinh nhỏ bé.
Chẳng hạn, khi thánh nữ giặt quần áo, chẳng may bắn nước giặt vào một chị nữ tu ngồi bên cạnh. Chị bị la mắng. Nhưng khi chị nữ tu kia làm bắn nước giặt sang thánh nữ, bắn nước nhiều hơn, thánh nữ không mắng lại, mà hy sinh nhịn nhục, để cầu cho các linh hồn.
Trong dòng có một nữ tu thánh nữ không thích, không thích gặp, không thích nói chuyện. Trông thấy chị ta, thánh nữ muốn tránh đi lối khác. Nhưng thánh nữ đã hy sinh : thánh nữ gặp chị ta như một người thân yêu nhất. Chị vui vẻ nói chuyện. Chị cầu nguyện cho chị ta. Chị nữ tu đó có lần buột mìệng hỏi : “Này chị Têrêsa Hài Đồng, chị có thể cho tôi biết tại sao chị mến tôi như thế, không hiểu sao hễ nhìn tôi chị tủm tỉm cười !”
Làm sao chị thánh có thể nhịn nhục, biến thù thành bạn ? Nhờ hai nguồn năng lực : đó là Chúa Giêsu Thánh Thể và Mẹ Maria. Giáo Hội Hoa Kỳ xuất bản cuốn sách nhan đề “Những Vị Thánh Đáng Nhớ”.. Tập sách đã viết về thánh nữ Têrêsa như sau : “Hai lòng mến lớn lao nhất của thánh nữ là Chúa Giêsu Thánh Thể và Đức Mẹ” (100 Truyện Tích Chuỗi Hạt Mân Côi, 238).
Chúng ta mừng thánh nữ Têrêsa, chúng ta còn biết ơn thánh nữ, vì thánh nữ đã muốn sang tu ở dòng kín Hà Nội, để cầu nguyện cho GHVN.
Tháng 11-1896, trước một năm qua đời, thánh nữ Têrêsa được bề trên cho phép sang dòng Kín Hà Nội để cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam. Thánh nữ làm tuần 9 ngày cầu nguyện với thánh Thêô Ven, vị thánh người Pháp, tử đạo ở Việt Nam. Chưa hết tuần, thánh nữ bị bệnh nặng, dấu hiệu cho biết thánh nữ không thể sang VN.
7g20 chiều ngày 30-9-1897, thánh nữ tắt thở trong vòng tay Đức Mẹ. Trên trời, chắc chắn thánh nữ không quên xin Đức Mẹ Mân Côi thương GHVN (29-10-2011)
————————————————–
Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Thứ sáu vừa qua, ngày 1-10, lễ mừng thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Lễ mừng thánh nữ vào đầu tháng Mân Côi. Thật là diễm phúc ! Đức Mẹ thưởng cho thánh nữ, vì thánh nữ rất yêu mến Đức Mẹ.
Những ngày quan trọng cuộc đời của thánh nữ cũng là những ngày kính Đức Mẹ.
Năm lên 10, thánh nữ bị bệnh nặng. Gia đình làm tuần 9 ngày van xin Đức Mẹ. Đúng ngày của Đức Mẹ, ngày 13-5-1883 Đức Mẹ hiện ra chữa cho thánh nữ. Thánh nữ kể : “Không còn trông cậy thế gian cứu giúp mình được nữa, bé Têrêsa đáng thương quay về Đức Mẹ, hết lòng xin Người thương xót mình… Bỗng nhiên con thấy tượng Đức Mẹ đẹp quá, đẹp chưa từng thấy, dung nhan Người từ ái và hiền dịu khôn tả, nhưng điều làm con sung sướng, cảm động hơn hết là : Đức Mẹ đã nở một nụ cười khả ái. Bấy giờ bao nhiêu đau đớn đều tiêu tan, hai giọt nước mắt con ứa tràn mi, từ từ lăn trên má, nhưng là những giọt nước mắt vui mừng… Đức Mẹ đã mỉm cười với con ! Ôi hạnh phúc dường nào !(Hương Việt, Thủ Bản Tự Thuật, 1967, tr 69).
Tháng 5, tháng Đức Mẹ, ngày 8-5-1884, 11 tuổi, thánh nữ được rước lễ lần đầu. Buổi chiều thánh nữ dâng mình cho Đức Mẹ. Thánh nữ kể : “Chiều hôm ấy chính con được đọc kinh dâng mình cho Đức Mẹ; vì con là đứa con mồ côi mẹ từ thuở măng sữa (lúc 4 tuổi), bây giờ được đại diện chị em để nói với ‘Mẹ phần hồn’ thì thật là chí lý… Con lấy hết lòng sốt sắng để nói với Đức Mẹ, dâng mình cho Đức Mẹ, như một đứa trẻ gieo mình trên cánh tay mẹ, và xin Đức Mẹ che chở. Con tưởng rằng Đức Mẹ phải nhìn xem bông hoa nhỏ của Người và mỉm cười với nó, vì chẳng phải chính Người đã hiện ra và mỉm cười với nó, để chữa nó khỏi bệnh đấy ư ? (Sđd, tr 80)
Cuối tháng Mân Côi, ngày 31-5-1886, 13 tuổi, thánh nữ được vào “Hội Con Đức Mẹ”. Thánh nữ kể : “…Các chị con đều là ‘Con Đức Mẹ’, con sợ mình thua kém các chị trong việc làm con Đức Mẹ, nên con xin được nhập hội Con Đức Mẹ” (Sđd, tr 90).
Ngày 8-9-1890, lại là ngày Đức Mẹ, ngày sinh nhật Đức Mẹ, thánh nữ Têrêsa 17t khấn dòng. Giống như đôi tân hôn ngoài đời, thánh nữ làm một cái thiệp mời. Nội dung thiệp như sau : “Thiên Chúa toàn năng, Đấng Tạo Hoá trời đất, thống trị thế giới, và Trinh Nữ hiển vinh Maria, Nữ Vương Thiên Đàng, hân hoan báo tin : hôn lễ của Quí Tử Giêsu, Vua các vua, Chúa các chúa, kết hôn với cô Têrêsa Martin hiện là công nương của các vương quốc đã được chính Phu Quân trao tặng làm của hồi môn, tức là : tậm hồn thơ ấu của Giêsu và cuộc tử nạn của Người. Danh hiệu quí giá của nàng là Hài Đồng Giêsu và Nhan Thánh” (Sđd, tr 174).
Thời thánh nữ Têrêsa, hình ảnh thánh Théo Venard, tên Việt là Ven, tử đạo tại Hà Nội in sâu trong trái tim Giáo Hội Pháp và trong mỗi người Công giáo Pháp. Lá thư thánh Ven viết gửi cho ba má, thánh nữ Têrêsa đã chép lại cho riêng mình đọc. Thánh nữ còn ghi lại cảm nghĩ : “Tư tưởng và tâm hồn của tôi cũng giống như tư tưởng và tâm hồn của cha Ven”.
Nghe tin các vị thừa sai đổ máu gieo vãi Tin Mừng cho đất Việt. Cha Ven muốn nối gót các ngài. Cha đặt chân lên bến Cửa Cấm, Hải Phòng ngày 13-7-1854. Cha vừa dạy trong chủng viện Hà Nội, vừa giúp các xứ đạo chung quanh. Được 6 năm, cha bị bắt ở Kẻ Bèo và bị nhốt trong cũi khiêng về Hà Nội.
Trước toà án, quan hỏi cha : “Ông đến Việt Nam để làm gì ?”
Cha đáp : “Tôi đến đây để giảng đạo thật”.
Quan hỏi : “Ông bao nhiêu tuổi ?”
Cha đáp : “Thưa 31 tuổi”.
Quan hỏi : “Ai sai ông đến đây ?”
Cha đáp : “Tôi muốn đi rao giảng đạo lành, các bề trên trong đạo đã gửi tôi sang Việt Nam, chứ không phải do chính phủ Pháp”.
Quan bảo : “Hãy đạp lên thập giá, ông sẽ không phải chết”.
Cha trả lời : “Suốt đời truyền giảng về Thánh Giá, sao tôi lại đạp Thánh Giá”.
Ngày 2-2-1861, cha bị nhốt trong cũi , và bị khiêng ra pháp trường Cầu Giấy, Hà Nội.
Một vị quan xin cha: “Xin ông đừng về báo oán chúng tôi nhé”.
Cha trấn an : “Tôi không báo oán đâu. Tôi sẽ cầu nguyện cho các ông”.
Cha quì xuống chiếu. Cha sốt sắng cầu nguyện. Mọi người đều nghe rõ :
– Lạy Mẹ dấu yêu, xin thương đặt con trong quê đời đời, bên Thánh Nhan Người.
Lạy Mẹ Vô Nhiễm, khi đầu con rơi xuống dưới lưỡi gươm của lý hình, xin nhận lấy tôi tớ nhỏ bé, như trái nho chín được hái, như bông hồng nở tươi được ngắt đem về dâng Mẹ. Ave Maria. Kính Mừng Maria.
Nhát gươm thứ nhất chém trượt vào má cha. Nhát gươm thứ hai vào đầu cha. Đầu bể làm hai. Đầu cha bị bêu trên ngọn tre ba ngày ba đêm, rồi bị vất xuống sông, giáo dân chèo thuyền đã tìm thấy. Còn thi thể của cha được giáo dân đút lót cho quan, đem về an táng.
Tháng 11-1896, trước một năm qua đời, thánh nữ Têrêsa được bề trên cho phép sang dòng Kín Hà Nội để cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam. Thánh nữ làm tuần 9 ngày cầu nguyện với thánh Thêô Ven. Chưa hết tuần, thánh nữ bị bệnh nặng, dấu hiệu cho biết thánh nữ không thể sang VN.
7g20 chiều ngày 30-9-1897, thánh nữ tắt thở trong vòng tay Đức Mẹ. Trên trời, chắc chắn thánh nữ không quên xin Đức Mẹ Mân Côi thương GHVN (3-10-2010)
————————————————–.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lễ Mẹ Mân Côi hôm nay bắt nguồn từ biến cố vịnh Lêpantô tức là vịnh Côrintô của Hy Lạp. Ngày 29-5-1453, quân đội Hồi giáo của Thổ Nhĩ Kỳ chiếm thành Constantinople ở Hy Lạp. Từ đó Hồi giáo bành trướng sang Âu châu và Phi châu, chờ ngày đặt chân lên nước Ý, chiếm kinh thành Rôma muôn thuở.
Trước sự đe doạ của Hồi giáo, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi vua chúa các nước đem quân cứu giúp. Có vua Tây Ban Nha và Ý đáp lại lời kêu gọi của Đức Giáo hoàng.
Tướng Don Juan, em vua Tây Ban Nha, được cử làm tổng chỉ huy đoàn quân Thánh Giá, để chống lại quân Hồi. Ngày 8-9-1571 đoàn quân ra trận. Trước khi lên đường, mọi binh lính đều xưng tội. Đoàn quân kéo thẳng tới vịnh Lêpantô, nơi các chiến thuyền Hồi giáo đậu neo. 1g30 trưa ngày 7-10-1571 hai bên đụng đầu nhau. Trên một chiếc thuyền nhỏ, tướng Don Juan chạy suốt mặt trận, tay cầm Thánh Giá chỉ huy. Khi tiếng kèn đồng vang lên, mọi quân binh Công giáo kêu cầu Thiên Chúa Ba Ngôi và đọc kinh Kính Mừng. Tiếng súng đại bác của quân Hồi nổ vang cả vùng vịnh. Cuộc chiến bắt đầu. Lưc lượng quân Thánh giá đã ít, lại chỉ có 209 chiến thuyền, thêm vào đó gió thổi ngược chiều. Còn quân Hồi vừa đông người, chiến thuyền cũng nhiều, 300 chiếc. Hai bên giáp chiến, đánh xáp lá cà, vật lộn, đâm chém suốt cả tiếng đồng hồ. Tướng Hồi giáo bị thương. Một binh sĩ Thánh giá nhanh chân nhảy sang thuyền của tướng địch, chém đầu rồi giơ lên hô to : “Hồi giáo đại bại !”. Như rắn mất đầu, quân Hồi giáo phải bỏ chạy để lại 284 chiến thuyền bị đắm, 30.000 quân bị giết, 3500 quân bị bắt làm tù binh.
Ở Vatican, Đức Giáo hoàng cùng với mọi người lần chuỗi Mân Côi. Bỗng ngài nhìn qua cửa sổ thấy đám mây trắng báo hiệu chiến thắng. Ngài đã cùng mọi người quì gối tạ ơn Chúa và Đức Mẹ. Để ghi nhớ ơn Mẹ, Đức Giáo hoàng Piô V đã lập một lễ kính Đức Mẹ vào chính ngày chiến thắng 7-10. Ngài gọi lễ này là lễ Mẹ Chiến Thắng. Đức Giáo hoàng Innôxentê XI đổi là lễ Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu. Sau hết, Đức Giáo hoàng Grêgôriô XIII đổi là lễ Mẹ Mân Côi.
Chính Đức Mẹ cũng tuyên bố vào ngày 13-10-1917 tại Fatima : “Mẹ là mẹ Mân Côi”. Từ tảng sáng ngày 13-10 người ta đã tuốn về tụ tập tại đồi Cova da Iria. Trời mưa như trút nước. Lầy lội bùn. Dù trú trong dù, người họ cũng ướt đẫm. Tuy rét mướt, họ vẫn cầu nguyện và ca hát. Trong khi đó người ta đem ba em Luxia, Phanxicô và Giaxinta tới. Ba em cũng ướt. Dân chúng chen nhau để được chạm vào ba em, khiến em Giaxinta khóc. Khi thấy ông Ti Marto chen lấn phía sau, em Giaxinta kêu lên : “Hãy để ý đến bố em với”. Khi gần tới cây sồi, mưa càng nặng hạt, đất trở thành bùn trơn trượt. Họ đặt ba em xuống bãi bùn. Luxia bắt đầu lần chuỗi, rồi tự nhiên kêu lớn tiếng : “Mọi người hãy bỏ dù xuống !”, rồi nói với Phanxicô và Giaxinta : “Đức Mẹ đang tới ! Chị đã trông thấy chớp sáng”. Bà mẹ của Luxia hồ nghi về việc Đức Mẹ hiện ra, đã nhiều lần đánh đòn Luxia, nên nói với Luxia : “Nhìn kỹ con ơi, cẩn thận kẻo lầm” ! Nhưng con bà đã xuất thần. Một làn mây trắng lan ra chung quanh ba em, cao hơn 5 mét. Người ta nghe Luxia hỏi Đức Mẹ : “Bà muốn con làm gì” ? Đức Mẹ giải ánh sáng trước mặt ba em. Các em thấy mặt Đức Mẹ rất buồn. Đức Mẹ nói : “Mẹ là Mẹ Mân Côi. Mẹ muốn xây một nhà nguyện nơi đây để kính Mẹ. Chúng con hãy tiếp tục lần hạt. Chiến tranh sẽ sớm kết thúc, và các quân nhân không bao lâu nữa sẽ được trở về nhà”. Sau đó là phép lạ mặt trời quay.
Từ năm 1981 tới nay Đức Mẹ hiện ra ở Mễ Du, nước Bosnia. Ngày 12-6-1986, Đức Mẹ nói với em : “Các con yêu dấu, bữa nay Mẹ năn nỉ các con hãy lần chuỗi Mân Côi với niềm tin sống động. Chỉ có cách này, Mẹ mới có thể giúp đỡ các con”.
Đức Mẹ hiện ra ở La Vang và ở Trà Kiệu cũng là lúc giáo dân lần chuỗi van xin Mẹ.
Năm 1789, vì những cuộc bắt đạo thời Tây Sơn, đoàn con của Mẹ phải chạy trốn vào nơi rừng thiêng nước độc La Vang. Vừa sợ bị lưỡi gươm giết hại, vừa sợ thú dữ và nước độc nơi núi rừng. Đoàn con cái của Mẹ chẳng biết làm sao tránh khỏi nguy nan, chỉ biết chạy đến Mẹ. Họ đã tập họp dưới một gốc cây đa, lần chuỗi cầu khẩn Mẹ. Mẹ đã hiện ra. Mẹ rất vui vẻ và rất xinh đẹp. Mẹ mặc áo trắng và có ánh sáng bao quanh. Hai đứa trẻ xinh đẹp, mỗi đứa cầm một bó đuốc, đứng hai bên Mẹ. Mẹ đi đi lại lại nhiều lần trước mặt những người Kitô hữu đang rất đỗi vui mừng. Chân Mẹ chạm đất như thể chiếm hữu nó. Rồi Mẹ đứng lại, bằng một giọng rất dịu dàng, đã nói : “Hỡi các con, các con hãy tin tưởng, các con hãy cam lòng chịu khổ. Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn cùng Mẹ ở chốn này, Mẹ sẽ nhậm lời ban ơn theo ý nguyện”. Rồi Mẹ căn dặn họ hái lá cây chung quanh để chữa bệnh. Nói xong, Mẹ biến đi, và một luồng sáng bao quanh Mẹ.
Mẹ hiện ra ở Trà Kiệu như sau : Năm 1885 thời Văn Thân, Mẹ đến cứu đoàn con của Mẹ ở Trà Kiệu. Quân Văn Thân đầy đủ súng đạn, có cả đại bác và voi trận. Giáo dân Trà Kiệu làm sao chống nổi. Vì thế, họ đã lập bàn thờ Mẹ. Đốt nến hai bên. Lần chuỗi suốt ngày đêm van xin Mẹ. Mẹ đã hiện ra trên nóc nhà thờ, đứng hai bên Mẹ là hai đoàn thiên thần mặc áo trắng và đỏ. Mẹ đứng che chắn đạn quân Văn Thân bắn vào nhà thờ, và vào con cái Mẹ.
Chuỗi Mân Côi là thuẫn đỡ, là sức mạnh. Nên Các Thánh Tử Đạo VN đã hết sức siêng năng lần chuỗi.
Thánh Anrê Kim Thông, ông trùm họ Gò Thị, Qui Nhơn, đã dựng nhà nguyện dâng kính Mẹ Vô Nhiễm. Tối nào gia đình cũng vây quanh tượng Mẹ để lần chuỗi. Vì thế, trước khi qua đời, ngài đã đọc kinh Kính Mừng.
Thánh Philípphê Phan Văn Minh, cha sở Mặc Bắc, Vĩnh Long, ngày 3-7-1853 bị đưa ra pháp trường chém đầu. Trên đường tiến ra pháp trường, cha vẫn vui vẻ, vừa đi cha vừa lần chuỗi (5-10-2007).
————————————————-
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Hôm nay là lễ Mẹ Mân Côi. Lễ Mân Côi được Đức Giáo hoàng Piô V thiết lập năm 1571 sau chiến thắng quân Hồi giáo tại vịnh Lêpantô (trong biển Hi Lạp). Chúng ta tìm hiểu Lời Chúa của ngày lễ Mẹ hôm nay.
Trước hết là Bài Tin Mừng : Thánh sử Luca đã tường thuật cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu song song với cuộc đời thơ ấu của thánh Gioan Tẩy Giả :
1/ truyền tin cho ông Giacaria (Lc 1,5-25) song song với truyền tin cho Đức Mẹ (Lc 1,26-38) .
2/ Thánh Gioan ra đời và chịu phép cắt bì (Lc 1,57-80) song song với Chúa Giêsu ra đời và dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh (2,1-52).
Lối văn song đối là lối văn của văn chương Hi Lạp, không phải là lối văn của Do Thái. Ông Plutarque, người Hi Lạp, đã viết một cuốn sách, nhan đề là “Những Cuôïc Đời Sóng Đôi” (Vies Parallèles). Ông đã kể ra 23 cặp cuộc đời của người Hi Lạp và Rôma. Lối văn này nhằm so sánh giữa hai người Hi Lạp và Rôma, người Hi Lạp vượt trên người Rôma. Nay thánh Luca dùng lối văn song đối của văn chương Hi Lạp, để so sánh giữa thánh Gioan Tẩy Gỉa và Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cao trọng hơn thánh Gioan.
Những khác biệt của hai cuộc truyền tin nói lên sự khác biệt giữa thánh Gioan và Chúa Giêsu :
1/ Thiên thần Gabriel truyền tin cho ông Giacaria, chứ không cho bà Êlisabét; cũng thiên thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ, chứ không cho thánh Giuse.
2/ Truyền tin cho ông Giacaria ở trong Đền Thờ Giêrusalem nguy nga, lộng lẫy; còn cho Đức Mẹ thì ở nhà riêng không uy nghi, rộng lớn.
3/ Dấu hiệu của việc truyền tin cho ông Giacaria là ông bị câm, như một hình phạt; còn Đức Mẹ và bà Êisabét, chị họ, mang thai khi tuổi già, là niềm vui.
4/ Thiên thần hiện ra không chào ông Giacaria; còn thiên thần chào Đức Mẹ : “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”. “Đức Chúa Trời ở cùng” là lời Thiên Chúa nói với ông Ghêđêôn, khi sai ông làm Thẩm Phán, để đánh đuổi quân địch chống phá dân ông, hầu bảo đảm Chúa giúp ông thi hành sứ vụ Chúa giao .
5/ Ông Giacaria bị câm không đáp lại một lời với thiên thần; còn Đức Mẹ thì đáp lại : “Này tôi là tôi tá Đức Chúa Trời, tôi xin vâng như lời thánh thiên thần truyền”. Thánh Luca thường dùng từ “tôi tá”, “đầy tớ” ám chỉ đến các người tín hữu, các chi thể của Giáo Hội (Cv 2,18; 4,29; 16,17). Như thế, thánh Luca muốn nói Đức Mẹ là thành viên gương mẫu của Giáo Hội. Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng Muôn Dân) trình bày về Giáo Hội của Công đồng Vaticanô II đã viết về Đức Mẹ là thành phần đầu tiên của Giáo Hội .
6/ Sứ mệnh của thánh Gioan là “chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (1,17); còn Chúa Giêsu là “Con Đấng Tối Cao… sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời”. Chúa Giêsu, con của Đức Mẹ là Thiên Chúa thì Đức Mẹ cũng là Mẹ của Thiên Chúa. Đó cũng là tuyên ngôn của Công đồng Nicê năm 325.
Bài đọc 1 là câu chuyện cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần hiện xuống trong sách Công Vụ Tông Đồ. Cũng thánh Luca kể như sau : “Tất cả các ông đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu”(1,14). Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày sinh ra Giáo Hội. Chúa Giêsu sinh ra do quyền năng Chúa Thánh Thần và nhờ Đức Mẹ xin vâng, thì nay Giáo Hội cũng sinh ra do quyền năng Chúa Thánh Thần và nhờ Đức Mẹ cầu nguyện. Khi sinh Chúa Giêsu, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa; khi sinh Giáo Hội, Đức Mẹ là Mẹ Giáo Hội. Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã thêm tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” vào kinh cầu Đức Bà.
Bài đọc 2 đọc thư thánh Phaolô gửi các tín hữu Galát. Thánh Phaolô viết : “Khi thời gian đến hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một ngưòi phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử… và lòng anh em kêu lên ‘Apba, Cha ơi!’” (4,4-6). Lề Luật thánh Phaolô nói là Luật đạo Do Thái. Chúa Giêsu đến giải thoát chúng ta khỏi Luật Lệ Do Thái và cho chúng ta làm “nghĩa tử” của Thiên Chúa. Các hoàng đế thường tự coi mình là Thiên tử, con Trời. Người Do thái cũng coi mình là con Thiên Chúa, nhờ giao uớc Thiên Chúa thiết lập. Còn thánh Phaolô thì bảo chúng ta là con Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa đã sai Con Mình tới, sinh làm con một người phụ nữ”. Người phụ nữ là Đức Mẹ. Nhờ Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu mà chúng ta được làm con Thiên Chúa.
Vì là Mẹ của Chúa Giêsu, Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Giáo Hội, và là thành viên thứ nhất của Giáo Hội, nên Mẹ không thể không phục vụ Thiên Chúa, chở che Giáo Hội và cứu giúp chúng ta. Do đó Mẹ hiện ra khắp nơi và tìm mọi cách, nhất là chuỗi Mân Côi để cứu giúp.
Từ năm 1983 đến 1990, Đức Mẹ hiện ra với bà Gladys de Motta, vợ của một công nhân kim khí đã về hưu, ở San Nicolas, nước Argentina, Đức Mẹ cũng xưng mình là Mẹ Mân Côi. Ngày 25-9-1983, bà Gladys de Motta đang qùi gối lần chuỗi, Đức Mẹ đã hiện ra với bà. Đức Mẹ mặc áo mầu xanh, tay bồng ẵm Chúa Giêsu và tay cầm tràng chuỗi. Vài tuần trước, bà đã thấy những hạt chuỗi bà treo đầu giường phát ánh sáng lấp lánh. Ngày 7-10-1983, lễ Mẹ Mân Côi, tự nhiên bà cảm thấy trong người như có gì khác lạ. Bà nhắm mắt để lấy lại tinh thần thì thấy ánh sáng chiếu vào mắt. Mở mắt ra thấy Đức Mẹ đứng trước mặt, tay cầm một tràng chuỗi lớn. Thứ sáu ngày 16-11-1984, bà cảm thấy mình như đang chịu những đau đớn của Chúa Giêsu đóng đinh. Nhìn xuống đôi cổ tay, bà thấy có những dấu đinh (Chúa Giêsu chịu đóng đinh nơi cổ tay, chứ không phải ở lòng bàn tay như thấy ở các tượng chịu nạn). Cứ Mùa Vọng và Mùa Chay, những dấu đinh lại xuất hiện. Các ngày thứ sáu Mùa Chay, dấu đinh chảy máu. Ngày thứ sáu Tuần Thánh, lúc 3g chiều, giờ Chúa chết, thì xuất hiện những dấu đinh ở chân và vai. Mùa Vọng năm 1984 Đức Mẹ yêu cầu bà Motta ăn chay. Bà chỉ uống nước nho, trà và càphê sữa, không ăn gì khác. Thế mà bà không xuống cân và ốm đau. Mỗi lần Đức Mẹ hiện ra đều tỏa mùi thơm hoa hồng. Từ năm 1983-1990, 7 năm, Đức Mẹ hiện ra với bà cả thảy 68 lần. Bà chép lại những lời Đức Mẹ nói với bà và các phép lạ Đức Mẹ làm trong 1 cuốn sách dầy 200 trang (5-10-2003).
Linh mục Giuse Nguyễn Trung Thành