Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-Su


Lễ Thánh Tâm

(Đnl 7,6-11; 1Ga 4,7-16; Mt 11,25-30)

23-6-2017

 

Lễ Thánh Tâm ngày 27/06/2006, Đức Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI đã nói : “Lễ trọng Thánh Tâm Chúa Giê-su cũng là Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho sự Thánh Hoá các Linh Mục. Tôi lợi dụng dịp thuận tiện này để mời tất cả anh chị em, hỡi những Anh Chị Em yêu dấu, luôn cầu nguyện cho các linh mục ngõ hầu các ngài có thể nên những chứng nhân tình yêu của Chúa Ki-tô.

Hôm nay là ngày cầu nguyện cho các linh mục. Chúng ta đọc lại cuộc đời của cha Alexandre de Rhodes, tên Việt Nam là Đắc Lộ, một trong những nhà truyền giáo đầu tiên và nhiệt thành của Giáo Hội Việt Nam, để “luôn cầu nguyện cho các linh mục, ngõ hầu các ngài có thể nên những chứng nhân tình yêu của Chúa Ki-tô“.

Cha Đắc Lộ sinh ngày 15-3-1593 tại Avignon (A-vi-nhông), nước Pháp. Năm 18 tuổi cha đi tu dòng Tên. Năm 25t cha chịu chức linh mục. Năm sau, 26t, cha được sai sang Nhật truyền giáo. Cha  đến  Goa, Ấn Độ và chờ ngày vào nước Nhật. Vì Nhật Bản bắt đạo gay gắt, bề trên sai cha vào Trung Quốc truyền giáo. Cuối cùng bề trên sai cha tới Đàng Trong (Miền Nam) Việt Nam.

Ngày 7-12-1624 cha đặt chân lên đất Hội An. Lúc đó đã có cha Buzomi và cha Pina. Cha Pina nói sỏi tiếng Việt. Khi nghe người Việt nói như chim hót, cha thất vọng. Cha nghĩ là không thể tập nói được. Cha học tiếng Việt với cha Pina và một cậu bé độ 10,12 tuổi tại Thanh Chiêm (Phước Kiều).

Về cậu bé, cha Đắc Lộ kể lại như sau : “Chỉ trong 3 tuần lễ, cậu bé đã dạy tôi biết tất cả những cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách phát âm của từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ Âu châu, thế mà cũng trong 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời cậu học đọc, học viết tiếng Latinh và  có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu. Sau đó cậu trở thành Thày Giảng giúp việc các cha truyền giáo, và là một dụng cụ tông đồ hữu hiệu trong việc loan báo Tin Mừng nơi quê hương Việt Nam thân yêu của Thày và nơi Vương quốc Lào láng giềng” (Internet Yahoo “Cha Đắc Lộ”).

Cậu bé dạy tiếng Việt cho cha Đắc Lộ sinh năm 1612 tại Cây Trâm, giáo xứ Tam Kỳ, Quảng Nam ngày nay. Tên Việt Nam của cậu có thể là Trang. Nhưng cậu nhớ ơn cha, lấy tên Rhodes của cha đặt tên cho mình, còn tên thánh của cậu là Ra-pha-el. Ông Raphael Rhodes xuất tu, làm thông dịch viên cho các thương gia Hòa Lan, Bồ tại Thăng Long và Phố Hiến. Ông có nhà tại Thăng Long và Phố Hiến. Năm 1670 đi thăm giáo phận Đàng Ngoài (Miền Bắc) lần đầu tiên, Đức cha Lambert de La Motte lúc ở trên tầu, lúc ở trong nhà ông. Ông có công xây dựng Nhà Thờ Chính Tòa Hà Nội. Ông  giúp đỡ các thừa sai về tinh thần và vật chất. Sau 7 năm bệnh tật liệt giường, ông qua đời ngày 29-6-1687, thọ 75 tuổi. Đức cha Bourges hiện diện trong giờ chết của ông (Đỗ Quang Chính, Dòng Mến Thánh Giá, trang 7-8).

Ở Hội An được 3 năm, năm 1627, cha Đắc Lộ được sai ra Miền Bắc truyền giáo. Ngày lễ thánh Giuse 19-3-1627 thuyền của cha tới Cửa Bạng, Thanh Hóa. Ngày 2-7-1627 cha tới Thăng Long. Trịnh Tráng xây nhà xứ nhà thờ cho cha. Theo cha Dỗ Quang Chính, địa điểm đó sát đền Bà Kiệu cạnh hồ Hoàn Kiếm (Tản Mạn LSGHVN, trang 279).  Cha giảng đạo một ngày 4,6 lớp. Mỗi lớp 3 đến 5 chục người. Cuối năm cha rửa tội được 1200 người. Đặc biệt có công chúa Catarina. Công chúa làm thơ về công trình cứu độ của Thiên Chúa từ tạo thiên lập địa cho đến Chúa Giê-su ra đời.

Các quan và nhà giầu thời đó có nhiều vợ. Thấy đạo dạy một vợ một chồng, các quan đề nghị Trịnh Tráng cấm đạo và trục xuất cha ra khỏi xứ Bắc  Năm 1630 cha ra đi, giã từ hơn 7000 giáo dân mà cha đã rửa tội trong ba năm.

Cha về Macao dạy học 10 năm. Đầu tháng 2 năm 1640 bề trên sai cha trở lại Đàng Trong. Cha không dám công khai, phải ẩn lánh nhà ông trưởng khu phố Nhật Bản ở Hội An. Nhờ ông, cha đem lễ vật ra Huế dâng cho chúa Nguyễn Phúc Lan. Cha ở nhà bà Minh Đức giảng đạo được 35 ngày, rửa tội được 92 người. Trở lại Hội An, cha bị quan trấn Vĩnh Điện Quảng Nam phát giác. Ngày 20-9-1640 ông đuổi cha ra khỏi nước.

Chỉ ba tháng sau, lễ Giáng sinh năm 1640, cha Đắc Lộ trở lại  Hội An lần II. Lợi dụng tầu buôn người Bồ trao đổi hàng hóa, cha lén lút đi giảng đạo xuống phía nam là Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Phú Yên. Sáu tháng cha rửa tội được 1305 người, trong đó có thày Anrê-Phú Yên. Tầu nhổ neo, cha theo tầu về lại Macao ngày 2-7-1641.

Đến cuối tháng 1-1642 cha Đắc Lộ trở lại Hội An lần III. Cha dâng cho quan trấn Quảng Nam lễ vật quí báu, trong đó có chiếc đồng hồ. Quan làm ngơ cho cha ở lại. Cha chọn được 10 thày giảng. Ngày 31-7-1642 cha tổ chức lễ khấn cho 10 thày tại nhà thờ Hội An.

Đầu năm 1644 cha Đắc Lộ trở lại Hội An lần IV. Cha ra Huế dâng lễ vật cho chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn làm ngơ cho cha ở lại. Ban đêm cha gặp giáo dân ở nhà bà Minh Đức, ban ngày cha trốn xuống thuyền. Cha vào Hội An tổ chức Tuần Thánh. Rồi cha ra Quảng Bình thăm giáo dân. Cha trở lại Hội An. Quan Quảng Nam ra lệnh bắt thày Anrê. Ngày 26-7-1644, thày bị chém đầu. Cha tắm rửa và ướp muối thi hài thày. Gần một năm sau, ngày 3-7-1645, cha bị trục xuất. Cha rời VN đem theo thi hài thày Anrê về Macao.

Vĩnh viễn ra đi  không bao giờ trở lại, nhưng trong lòng cha Đắc Lộ không bao giờ quên 300.000 giáo dân và hàng trăm thày giảng Việt Nam. Ngày 20-12-1645 cha xuống tàu về Rôma, để xin Đức giáo hoàng sai 12 giám mục cho GHVN. Cha đem theo sọ thày Anrê. Ngày 30-7-1652 Đức giáo hoàng đề nghị cha làm giám mục. Cha khiêm nhường từ chối. Cha về Pháp vận động. Đức giáo hoàng Alexandre VII chọn hai cha Francois Pallu và Lambert de la Motte làm giám mục đầu tiên cho hai giáo phận Đàng Ngoài và Đàng Trong được thiết lập ngày 9-9-1659.

Năm  1654 cha Đắc Lộ được sai đi giảng đạo ở nước Iran. Cha qua đời ngày 5-11-1660, thọ 67 tuổi. Cha qua đời trước 1 năm thiết lập hai giáo phận Đàng Ngoài và Đàng Trong. Song đường xá xa xôi, có lẽ cha không biết tin vui này. Cha giảng đạo ở Iran 5 năm; ở VN 11 năm.

Tinh tình cha dịu dàng Cha luôn cư xử như con chiên giữa bày sói. Đức khiêm nhường và vâng lời của cha tuyệt vời. Cha hạ mình làm những công việc thấp hèn nhất, những việc càng khó, cha càng tin tưởng vào Chúa. Đức trong sạch của cha không thể chê được. Cha thận trọng trong việc nhìn xem. Cha yêu mến Chúa Giê-su Thánh Thể và Đức Mẹ. Cha viếng Chúa và lần chuỗi hằng ngày. Người ta coi cha là thánh. Nhiều người viếng mộ cha.

Cha Đắc Lộ quả đúng là “chứng nhân tình yêu của Chúa Ki-tô“, của Thánh Tâm Chúa, mà Giáo Hội tôn kính hôm nay.

——————————————————–

Lễ Thánh Tâm

Chúa nhật tuần trước chúng ta mừng lễ Mình Thánh Chúa. Chúa đã muốn cử hành lễ Mình Thánh với một nữ tu nghèo khổ Giu-li-a-na ở nước Bỉ năm 1209.

Lễ Thánh Tâm hôm nay, Chúa cũng hiện ra tỏ bày ước nguyện với chị nữ tu nghèo khổ Ma-ga-ri-ta Ma-ri-a nước Pháp năm 1675.

Thánh nữ là con thứ 5 trong số 7 người con của ông bà A-la-cốc ở Gia-nô (Janots). Cha là một viên chức chính phủ và gia đình sống trong một ngôi nhà lớn. Dân làng làm đất của hai ông bà ở quây quần chung quanh. Bà A-la-cốc là một người mẹ đạo đức. Bà xác quyết rằng cầu nguyện và Kinh Thánh là điều đầu tiên con cái phải học. Gia đình đã gặp thảm cảnh khi ông A-la-cốc qua đời vì tai nạn. Bà buồn bã sinh bệnh tật, không thể nuôi dạy con cái. Năm 8 tuổi thánh nữ được gửi vào trường nội trú của các sơ dòng Cla-ra.

Ở trường nội trú thánh nữ thích dậy sớm vào nhà thờ nghe các nữ tu hát Thánh Vịnh. Và tối thánh nữ cũng thường có mặt để lần chuỗi. Thánh nữ thích cầu nguyện và yêu Chúa Giê-su, đến nỗi được rước lễ lần đầu khi mới 9 tuổi.

Thánh nữ thích nhìn các nữ tu và trong thâm tâm  thường hứa với Chúa rằng : khi đủ tuổi sẽ đi tu dâng mình cho Chúa. Nhưng khi lên 11 tuổi, thánh nữ bị bệnh thấp khớp và phải từ giã ngôi trường nội trú. Một trong những bà con đem thánh nữ về Gia-nô.

Thánh nữ sửng sốt khi thấy ông cậu cướp hết tài sản tiền bạc của gia đình, chiếm đoạt cả nhà cửa nữa. Mẹ và anh chị em thánh nữ bị hành hạ như những đầy tớ trong nhà. Thánh nữ xin phép ông cậu tới nhà thờ cầu nguyện, khi được phép, khi không được phép.

Má nói với thánh nữ : “Bổn phận của con là lập gia đình !” Thánh nữ không biết nói làm sao, vì thánh nữ không muốn lập gia đình. Má lại thúc giục : “Hãy chọn lấy một chàng trai, chứ không được chọn ai khác !

Vì má, thánh nữ thay đổi nếp sống. Thánh nữ làm bạn với một vài người trẻ cả nam lẫn nữ thường đến dự tiệc do ông cậu khoan đãi. Chẳng bao lâu ông cậu và má khuyên thánh nữ chọn lấy một người làm bạn đời. Nhiều người trai quí mến, thánh nữ có thể chọn ai tùy ý.

Tuy nhiên, thánh nữ nhớ lại lời hứa với Chúa Giê-su là thánh nữ đi tu dâng mình cho Chúa. Một ngày kia sau khi rước lễ, thánh nữ cầu nguyện xin Chúa giúp cho biết chọn đàng nào : đi tu hay lập gia đình. Chúa Giê-su hiện ra đứng bên phải trước mặt thánh nữ. Chúa quyền năng và đẹp biết dường nào, nhưng mặt Chúa buồn. Chúa nói : “Cha đã chọn con làm người riêng của Cha. Khi con còn rất trẻ, con đã chọn Cha rồi !

Thánh nữ đã khóc. Thánh nữ đang nghĩ từ bỏ lời hứa, mà lấy chồng. Thánh nữ thấy mình ngu đần làm sao. Và thánh nữ hứa với Chúa : “Lạy Chúa, dù con có giá đến bạc tỷ cũng chẳng là gì cả, chỉ trừ là nữ tu của Chúa.

Thánh nữ nói với gia đình : “Xin gia đình thương từ bỏ ý định bắt con lập gia đình !”. Thánh nữ vào dòng Thăm Viếng và nhà dòng đặt tên cho thánh nữ là Ma-ga-ri-ta Ma-ri-a.

Tình yêu Chúa của nữ tu Ma-ga-ri-ta Ma-ri-a mỗi ngày thêm sâu đậm. Thánh nữ trải qua nhiều giờ thờ phượng Chúa Thánh Thể. Thánh nữ nói : “Ôi lạy Chúa của con, con yêu Chúa đến nỗi con muốn tình yêu Chúa đốt cháy con, giống như cây nến bị ngọn lửa đốt cháy !

 Chúa Giê-su hiện ra tỏ Trái Tim Chúa cho thánh nữ 3 lần :

Lần I : Ngày 27-12-1673, Chúa hiện ra lần thứ I, tỏ cho thánh nữ thấy Trái Tim Chúa. Thánh nữ kể : “Chúa cho tôi tựa vào ngực Chúa một lúc lâu… Chúa mở Trái Tim cho tôi thấy… Chúa nói : “Trái Tim Cha yêu thương loài người đến nỗi không thể giữ trong Trái Tim Cha những ngọn lửa yêu thương nồng cháy…

Lần II : Gần nửa năm sau, vào ngày thứ sáu trong Tuần Bát Nhật lễ Mình Thánh Chúa, tháng 6 năm 1674, Chúa hiện ra lần thứ hai, tỏ Trái Tim Chúa cho thánh nữ. Thánh nữ kể : “Khi Mình Thánh Chúa được đặt ra bàn thờ để chầu, tâm hồn tôi ngây ngất, vì Chúa Giê-su, Thầy chí thánh dịu ngọt, hiện ra với tôi. Chúa rực sáng đầy vinh quang. Năm dấu đanh của Chúa sáng như năm mặt trời. Những ngọn lửa phát ra khắp người Chúa, đặc biệt nơi trái tim, trông giống như lò lửa. Chúa mở ngực cho tôi thấy Trái Tim rất yêu thương của Chúa. Trái Tim là nguồn của mọi tia lửa.

Chúa xin thánh nữ hai điều :

1/ làm việc đền tội vào mỗi ngày thứ sáu đầu tháng

2/ làm một giờ thánh từ 11g đến 12 đêm thứ năm đầu tháng để đền tội người ta đã xúc phạm đến Chúa.

Lần III : Một năm sau, ngày 16-6-1675 Chúa hiện ra tỏ Trái Tim Chúa lần thứ ba. Chúa nói : “Đây là Trái Tim Cha yêu thương loài người không dành lại một sự gì, đến nỗi bị thiêu đốt, để biểu lộ tình thương của Trái Tim Cha. Thế mà Cha chỉ nhận phần nhiều sự vô ơn, bất kính và phạm thánh, và người ta đã lạnh nhạt và thách thức Cha trong bí tích yêu thương. Đó là nỗi khổ đau dường nào của Cha !

Lần hiện ra thứ ba này Chúa Giê-su xin hằng năm tổ chức một ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa.

10 năm sau, tháng 6-1686 lễ Trái Tim được cử hành lần đầu tiên tại nhà nguyện của dòng Thăm Viếng. 90 năm sau lễ Trái Tim mới được Đức Giáo hoàng Clêmentê XIII  cho cử hành trên toàn thế giới (11-6-2010).

Linh mục Giuse Nguyễn Trung Thành