Lễ truyền giáo


Lễ Truyền Giáo

(Is 56,1.6-7; Cv 13,46-49; Lc 24,4-7)

Hôm nay lễ Khánh Nhật Truyền Giáo, ngày truyền giáo. Cám ơn Chúa, người Việt Nam chúng ta nhiệt thành truyền giáo. Chẳng những cầu nguyện, mà còn hăng say xông pha ra cánh đồng truyền giáo. Ở bên Giáo Hội Tây Phương, đi tu cũng ít, vào các hội đoàn cũng ít. Nhờ những người Việt Nam di tản từ năm 1975, bên trời Tây mới còn các Hội Đoàn Công Giáo Tiến Hành. Giới thiếu nhi thì có Thiếu Nhi Thánh Thể, giới trưởng thành thì có Đạo Binh Đức Mẹ, Liên Minh Thánh Tâm, Hội Gia Trưởng, Hội Hiền Mẫu…Ai cũng cầu nguyện, cũng lo mở mang Nước Chúa. Nói theo sứ điệp Fatima, ai nấy cũng thực thi ba mệnh lệnh Đức Mẹ : cải thiện đời sống, lần chuỗi Mân Côi, tôn sùng Mẫu Tâm…

Nhìn lại những ngày đầu Tin Mừng được gieo vãi trên Đất Việt, việc truyền giáo không chỉ là việc của các linh mục, tu sĩ, mà còn là việc của giáo dân. Năm 1627 chỉ có hai cha Phêrô Marquez và cha Alexandre de Rhodes (tên Việt Nam là Đắc Lộ), đến xứ Bắc truyền giáo, kết quả thật đáng khâm phục : năm 1627 hai cha rửa tội được 1200 người, năm 1628 được khoảng 2000 người, năm 1629 gần 4000 người (Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Ở Việt Nam,Tập I, trang 134).

Nếu chỉ có hai cha, nhất là chỉ có cha Đắc Lộ biết nói tiếng Việt, thì hoa quả truyền giáo lớn lao đó không thể chỉ do các cha, mà còn do lòng nhiệt thành truyền giáo của giáo dân.

Trong tập sách kể trên, cha Bùi Đức Sinh đã ghi lại công ơn của công chúa Catarina như sau :

Công chúa Catarina, chị chúa Trịnh. Bà khuyên được 17 hoàng tử khác vào đạo, trong đó có bà mẹ của công chúa. Bà cụ trước kia đã được tôn làm đầu các bà vãi. Trước đã sùng Phật bao nhiêu, thì sau khi vào đạo càng sùng đạo bấy nhiêu. Bà cụ còn khuyên được nhiều cung nữ, chính bà dạy đạo cho họ.

Công chúa Catarina không những nhiệt thành truyền đạo trong triều vua phủ chúa, bà còn đem tài văn chương ra để phục vụ Giáo Hội. Bà đặt thành thơ văn Lịch Sử Giáo Hội, bắt đầu từ tạo thiên lập địa đến khi Chúa xuống thế làm người, đời sống, tử nạn, phục sinh, lên trời của Đấng Cứu Thế, ở cuối phụ thêm đoạn kể chuyện các giáo sĩ đến Đông Kinh (Hà Nội) và công cuộc truyền giáo ở đó. Những thơ văn ấy thu hút được nhiều người theo đạo” (Sđd, trang 132-133).

Công việc truyền giáo được cả vợ chồng thày sãi một lòng hy sinh cho đạo. Cha Bùi Sinh đã ghi lại :

Ở làng Vũ Xá, cách Thăng Long độ hai ngày đường, có một thày Sãi được dân làng cắt trông coi đền, do một vương phi được đặt làm thần hoàng xã đó sau này, đã cất lên. Nhận thấy lẽ phải của đức tin Công giáo, hai vợ chồng thày vãi xin theo đạo, bỏ đền về nhà. Khi nghe thày và vợ vào đạo, bà vương phi truyền đuổi vợ chồng thày ra khỏi làng. Phải bỏ nhà cửa ruộng vườn ra đi, cái đó không làm nao núng tâm hồn ông bà Antôn và Phaola, tên thánh của vợ chồng thày sãi. Ông chỉ buồn vì phải rời bỏ những người ông đã khuyên được theo đạo, đang khi đức tin của họ chưa được vững. Chúa quan phòng đã thu xếp cho hai ông bà. Cũng như ở Vũ Xá, được ơn Thánh Linh giúp, ông bà đã hoạt động để làm giầu cho Chúa nhiều linh hồn, thì ở xã mới, nơi ông bà đến cư ngụ, ông bà đã bắt đầu ngay sứ vụ truyền giáo và cũng đưa được nhiều người vào đạo. Mỗi lần có công việc lên Kinh Đô, ông đến gặp các cha, dẫn theo một số hai chục hay ba chục, có lần đến tám chục người xin chịu phép rửa. Trong số này, có nhiều người văn hay chữ tốt hơn ông Antôn, nhưng nhờ có sức mạnh và khôn ngoan của Chúa Thánh Thần đã giúp ông biết ăn nói, làm họ phải kính nể” (Sđd, trang 136).

Cha Bùi Đức Sinh còn viết :

Phu nhân quan trấn ở Kẻ Đông (Hải Dương ngày nay) cũng tên thánh là Anna, đã đưa nhiều người trong vùng vào đạo, xây nhiều nhà nguyện cho những vùng vào đạo mới. Có nhiều dịp phải lên Kinh Đô thay chồng, bà thường đem nhiều tân tòng đến xin các cha rửa tội” (Sđd, trang 144).

Lòng sốt sắng sống đạo và nhiệt thành truyền giáo của cha ông chúng ta biết kể sao cho xiết.

Bđ1 : Qua lời ngôn sứ I-sai-a trong bđ1 thánh lễ hôm nay, Thiên Chúa đã ca ngợi những người ngoại trở về gắn bó với Chúa :

Người ngoại bang  nào gắn bó cùng ĐỨC CHÚA

để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh,

cùng trở nên tôi tớ của Người” (Is 56,6).

BTM : Nhóm PVCGK cắt nghĩa lý do truyền giáo trong BTM thánh lễ hôm nay là : “Trong Luca, không có chuyện đi Ga-li-lê như trong Mát-thêu và Mác-cô. Đối với Luca, toàn bộ mầu nhiệm Vượt Qua hoàn tất tại Giê-ru-sa-lem, để rồi từ Giê-ru-sa-lem, các Tông Đồ toả đi khắp nơi loan báo Tin Mừng (x. 9,51 ; 24,49 ; Cv 1,8 và các chú thích).

           Bđ2 : Bđ2 sách Công Vụ Tông đồ thánh Luca ghi lại lý do hai thánh Phaolô và Banaba bỏ người Do Thái, mà đi rao giảng Tin Mừng cho các dân khác là : “46Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng : “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. 47Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này : Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất h.”

48Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời i, đều tin theo. 49Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.

Trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Giáo Hoàng Phanxiô nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không chỉ là các môn đệ của Đức Chúa Giêsu Kitô mà còn là “các môn đệ truyền giáo“.

Công chúa Catarina, vợ chồng thày sãi Vũ Xá và vợ quan trấn Hải Dương quả là “những môn đệ truyền giáo” như Đức giáo hoàng ca ngợi (22-10-2017).

Lễ Truyền Giáo

Hôm nay là ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo. Đọc lại cuộc đời của cha Alexandre de Rhodes (A-léc-xăng đờ Rốt), tên Việt Nam là Đắc Lộ (nghĩa là ‘Tìm Được Đường Đi), để thêm lòng hăng hái truyền giáo. Người ta gọi cha là nhà truyền giáo số 1 của Việt Nam.

Cha sinh ngày 15-3-1593 tại Avignon (A-vi-nhông), nước Pháp. Năm 18 tuổi cha đi tu dòng Tên. Năm 25t cha chịu chức linh mục. Năm sau 26t cha được sai sang Nhật truyền giáo. Cha  đến  Goa, Ấn Độ và chờ ngày vào nước Nhật. Vì Nhật Bản bắt đạo gay gắt, bề trên sai cha vào Trung Quốc truyền giáo. Cuối cùng bề trên sai cha tới Đàng Trong Việt Nam.

Ngày 7-12-1624 cha đặt chân lên đất Hội An. Lúc đó đã có cha Buzomi và cha Pina. Cha Pina nói sỏi tiếng Việt. Khi nghe người Việt nói như chim hót, cha thất vọng. Cha nghĩ là không thể tập nói được. Cha học tiếng Việt với cha Pina và một cậu bé độ 10,12 tuổi, người Cây Trâm ở Tam Kỳ.

Về cậu bé, cha Đắc Lộ kể lại như sau : “Chỉ trong 3 tuần lễ, cậu bé đã dạy tôi biết tất cả những cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách phát âm của từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ Âu châu, thế mà cũng trong 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời cậu học đọc, học viết tiếng Latinh và  có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu. Sau đó cậu trở thành Thày Giảng giúp việc các cha truyền giáo, và là một dụng cụ tông đồ hữu hiệu trong việc loan báo Tin Mừng nơi quê hương Việt Nam thân yêu của Thày và nơi Vương quốc Lào láng giềng” (Trong Internet Yahoo “Cha Đắc Lộ”).

Cậu bé dạy tiếng Việt cho cha Đắc Lộ sinh năm 1612 tại Cây Trâm, Tam Kỳ, Quảng Nam ngày nay. Tên Việt Nam của cậu có thể là Trang. Nhưng cậu nhớ ơn cha, lấy tên Rhodes của cha đặt tên cho mình, còn tên thánh là Raphael . Ông Raphael Rhodes xuất tu, làm thông dịch viên cho các thương gia Hòa Lan, Bồ tại Thăng Long và Phố Hiến. Ông có nhà tại Thăng Long và Phố Hiến. Năm 1670 đi thăm giáo phận Đàng Ngoài lần đầu tiên, Đức cha Lambert de La Motte lúc ở trên tầu, lúc ở trong nhà của ông. Ông có công xây dựng Nhà Thờ Chính Tòa Hà Nội. Ông  giúp đỡ các thừa sai về tinh thần và vật chất. Sau 7 năm bệnh tật liệt giường, ông qua đời ngày 29-6-1687, thọ 75 tuổi. Đức cha Bourges hiện diện trong giờ chết của ông (Đỗ Quang Chính, Dòng Mến Thánh Giá, trang 7-8).

Ở Hội An được 3 năm, năm 1627, cha Đắc Lộ được sai ra Miền Bắc truyền giáo. Ngày lễ thánh Giuse 19-3-1627 thuyền của cha tới Cửa Bạng, Thanh Hóa. Ngày 2-7-1627 cha tới Thăng Long. Trịnh Tráng xây nhà xứ nhà thờ cho cha. Theo cha Dỗ Quang Chính, địa điểm đó sát đền Bà Kiệu cạnh hồ Hoàn Kiếm (Tản Mạn LSGHVN, trang 279).  Cha giảng đạo một ngày 4,6 lớp. Mỗi lớp 3 đến 5 chục người. Cuối năm cha rửa tội được 1200 người. Đặc biệt có công chúa Catarina. Công chúa làm thơ về công trình cứu độ của Thiên Chúa từ tạo thiên lập địa cho đến Chúa Giêsu ra đời.

Các quan và nhà giầu thời đó có nhiều vợ. Thấy đạo dạy một vợ một chồng, các quan đề nghị Trịnh Tráng cấm đạo và trục xuất cha ra khỏi xứ Bắc  Năm 1630 cha ra đi, giã từ hơn 7000 giáo dân mà cha đã rửa tội trong ba năm.

Cha về Macao dạy học 10 năm. Đầu tháng 2 năm 1640 bề trên sai cha trở lại Đàng Trong. Cha không dám công khai, phải ẩn lánh nhà ông trưởng khu phố Nhật Bản ở Hội An. Nhờ ông, cha đem lễ vật ra Huế dâng cho chúa Nguyễn Phúc Lan. Cha ở nhà bà Minh Đức giảng đạo được 35 ngày, rửa tội được 92 người. Trở lại Hội An, cha bị quan trấn Vĩnh Điện Quảng Nam phát giác. Ngày 20-9-1640 ông đuổi cha ra khỏi nước.

Chỉ ba tháng sau, lễ Giáng sinh năm 1640, cha Đắc Lộ trở lại  Hội An lần II. Lợi dụng tầu buôn người Bồ trao đổi hàng hóa, cha lén lút đi giảng đạo xuống phía nam là Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Phú Yên. Sáu tháng cha rửa tội được 1305 người, trong đó có thày Anrê-Phú Yên. Tầu nhỏ neo, cha theo tầu về lại Macao ngày 2-7-1641.

Đến cuối tháng 1-1642 cha Đắc Lộ trở lại Hội An lần III. Cha dâng cho quan trấn Quảng Nam lễ vật quí báu, trong đó có chiếc đồng hồ. Quan làm ngơ cho cha ở lại. Cha chọn được 10 thày giảng. Ngày 31-7-1642 cha tổ chức lễ khấn cho 10 thày tại nhà thờ Hội An.

Đầu năm 1644 cha Đắc Lộ trở lại Hội An lần IV. Cha ra Huế dâng lễ vật cho chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn làm ngơ cho cha ở lại. Ban đêm cha gặp giáo dân ở nhà bà Minh Đức, ban ngày cha trốn xuống thuyền. Cha vào Hội An tổ chức Tuần Thánh. Rồi cha ra Quảng Bình thăm giáo dân. Cha trở lại Hội An. Quan Quảng Nam ra lệnh bắt thày Anrê. Ngày 26-7-1644, thày bị chém đầu. Cha tắm rửa và ướp muối thi hài thày. Gần một năm sau, ngày 3-7-1645, cha bị trục xuất. Cha rời VN đem theo thi hài thày Anrê về Macao.

Vĩnh viễn ra đi  không bao giờ trở lại, nhưng trong lòng cha Đắc Lộ không bao giờ quên 300.000 giáo dân và hàng trăm thày giảng Việt Nam. Ngày 20-12-1645 cha xuống tàu về Rôma, để xin Đức giáo hoàng sai 12 giám mục cho GHVN. Cha đem theo sọ thày Anrê. Ngày 30-7-1652 Đức giáo hoàng đề nghị cha làm giám mục. Cha khiêm nhường từ chối. Cha về Pháp vận động. Đức giáo hoàng Alexandre VII chọn hai cha Francois Pallu và Lambert de la Motte làm giám mục đầu tiên cho hai giáo phận Đàng Ngoài và Đàng Trong được thiết lập ngày 9-9-1659.

Năm  1654 cha Đắc Lộ được sai đi giảng đạo ở nước Iran. Cha qua đời ngày 5-11-1660, thọ 67 tuổi. Cha qua đời trước 1 năm thiết lập hai giáo phận Đàng Ngoài và Đàng Trong. Song đường xá xa xôi, có lẽ cha không biết tin vui này. Cha giảng đạo ở Iran 5 năm; ở VN 11 năm.

Tinh tình cha dịu dàng. Cha luôn cư xử như con chiên giữa bày sói. Đức khiêm nhường và vâng lời của cha tuyệt vời. Cha hạ mình làm những công việc thấp hèn nhất, những việc càng khó, cha càng tin tưởng vào Chúa. Đức trong sạch của cha không thể chê được. Cha thận trọng trong việc nhìn xem. Cha yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và Đức Mẹ. Cha viếng Chúa và lần chuỗi hằng ngày. Người ta coi cha là thánh. Nhiều người viếng mộ cha. Vì tin thân xác cha vẫn tươi xinh như khi còn sống, người ta đề nghị mở mộ cha,

         Xin Cha nhớ đến GHVN mà cha đã dầy công vun xới (23-10-2011)

Linh mục Giuse Nguyễn Trung Thành

.