Sứ Điệp Của Đức Phanxicô Cho Ngày Thế Giới Người Nghèo Lần Thứ VI (13/11/2022): Để Không Ai Thiếu Đi Cái Cần Thiết
« Ước gì Ngày Thế giới người nghèo lần thứ VI này trở nên cơ hội ân sủng để kiểm điểm lương tâm cá nhân và cộng đồng và là cơ hội để chúng ta tự hỏi liệu sự nghèo khó của Chúa Giêsu Kitô là nguời bạn đời trung thành của chúng ta hay không ». Đức Phanxicô mời gọi các Kitô hữu như thế khi kết thúc sứ điệp Ngày Thế giới người nghèo lần thứ VI, diễn ra vào ngày 13/11/2022.
Đức Thánh Cha nhắc nhở : « Đối diện với người nghèo, chúng ta không hùng biện, nhưng xắn tay áo lên và thực hành đức tin bằng việc tham gia trực tiếp mà không thể ủy thác cho bất cứ ai ». Đối với ngài, « vấn đề không phải là có một hành vi trợ giúp người nghèo, như thường lệ ; trái lại, cần phải dấn thân để không ai thiếu đi cái cần thiết ». Vả lại, « người nghèo, trước khi là đối tượng của việc bố thí của chúng ta, đã là những chủ thể giúp chúng ta giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của lo lắng và hời hợt ».
Và nền tảng của việc Giáo hội dấn thân cho người nghèo qua hàng thế kỷ, đó là vì « Thiên Chúa, nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu, đã chọn và đi theo con đường này ». Bối cảnh của sứ điệp năm nay là cuộc chiến tranh ở Ucraina: “Có biết bao người nghèo mà sự phi lý của chiến tranh sinh ra ! Ở bất cứ đâu chúng ta nhìn, chúng ta đều thấy bạo lực đang tấn công những người không có khả năng tự vệ và những người yếu đuối nhất là dường nào ; những cuộc trục xuất hàng ngàn người, nhất là các trẻ em trai và trẻ em gái, để đuổi họ ra khỏi quê hương và áp đặt một danh tính khác cho họ“.
Đức Phanxicô làm phép cho bức tượng có tên “Trú ẩn” (Sheltering) dành cho người vô gia cư vào ngày 9/11/2022
Dưới đây là sứ điệp của Đức Thánh Cha :
Chúa Giêsu Kitô đã trở nên nghèo khó vì anh em (x. 2Cr 8, 9)
1. « Chúa Giêsu-Kitô […] đã trở nên nghèo khó vì anh em » (x. 2Cr 8, 9). Chính bằng những lời này mà thánh Phaolô Tông đồ nói với các Kitô hữu đầu tiên của giáo đoàn Côrintô, để mang lại nền tảng cho sự dấn thân liên đới của họ đối với anh chị em đang gặp khó khăn. Ngày Thế giới người nghèo trở lại trong năm nay như một sự khích lệ lành mạnh để giúp chúng ta suy nghĩ về phong cách sống của chúng ta và về nhiều sự nghèo đói hiện nay.
Cách đây vài tháng, thế giới đã ra khỏi cơn bão của đại dịch khi cho thấy những dấu hiệu phục hồi kinh tế sẽ an ủi hàng triệu người nghèo khổ vì mất việc làm. Một viễn cảnh thanh thản đang được mở ra, dù không làm cho quên đi nỗi đau của sự mất mát người thân, nhưng cuối cùng cho phép trở lại các mối tương quan liên vị trực tiếp, gặp lại nhau mà không bị gò bó hay hạn chế. Và giờ đây, một thảm họa mới đã xuất hiện ở phía chân trời, nhằm áp đặt cho thế giới một kịch bản khác.
Cuộc chiến tranh ở Ucraina đã đến thêm vào các cuộc chiến tranh khu vực mà, trong những năm vừa qua, đã gieo rắc chết chóc và tàn phá. Nhưng ở đây, khuôn khổ được thể hiện cách phức tạp hơn do sự can thiệp trực tiếp của một « siêu cường quốc » muốn áp đặt ý muốn của mình chống lại nguyên tắc tự quyết của các dân tộc. Những cảnh tượng ký ức bi thảm được lặp lại và, một lần nữa, những vụ tống tiền lẫn nhau của một số thế lực đang bao trùm lên tiếng nói của nhân loại kêu gọi hòa bình.
2. Có biết bao người nghèo mà sự phi lý của chiến tranh sinh ra ! Ở bất cứ đâu chúng ta nhìn, chúng ta đều thấy bạo lực đang tấn công những người không có khả năng tự vệ và những người yếu đuối nhất là dường nào ; những cuộc trục xuất hàng ngàn người, nhất là các trẻ em trai và trẻ em gái, để đuổi họ ra khỏi quê hương và áp đặt một danh tính khác cho họ. Những lời của tác giả Thánh vịnh khi đối diện với cuộc tàn phá Giêrusalem và sự lưu đày của những người trẻ Do Thái lại trở nên thời sự : « Bờ sông Ba-by-lon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xi-on; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: […] Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? » (Tv 137, 1-4).
Hàng triệu phụ nữ, trẻ em và người già buộc phải bất chấp nguy hiểm bom đạn khi tìm kiếm nơi ẩn náu để trú ẩn nơi các nước láng giềng, với tư cách là những di dân. Những người ở lại trong các vùng xung đột đang sống từng ngày với nỗi sợ hãi và thiếu thức ăn, nước uống, chăm sóc y tế và nhất và tình thương. Trong những hoàn cảnh này, lý trí trở nên lu mờ đi và chính dân thường phải chịu hậu quả, và đến thêm vào số người nghèo vốn đã nhiều. Làm thế nào đưa ra một câu trả lời thích đáng có thể mang lại sự an ủi và bình an cho rất nhiều người bị bỏ mặc cho sự thiếu chắc chắn và bấp bênh ?
3. Ngày Thế giới người nghèo lần thứ VI diễn ra trong khung cảnh rất mâu thuẫn này, với lời mời gọi – được lấy lại từ thánh Phaolô Tông đồ – chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu Đấng « vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có » (2Cr 8, 9). Trong chuyến viếng thăm Giêrusalem, thánh Phaolô đã gặp thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, những người đã xin ngài đừng quên người nghèo. Quả thế, cộng đoàn ở Giêrusalem đang lâm vào tình trạng khó khăn nghiêm trọng vì nạn đói đang hoành hành khắp đất nước. Và thánh Tông đồ đã lập tức lo tổ chức một cuộc quyên góp lớn cho những người nghèo này. Các Kitô hữu ở Côrintô tỏ ra rất nhạy cảm và sẵn sàng. Theo chỉ dẫn của thánh Phaolô, mỗi ngày đầu tuần, họ thu thập những gì họ có thể tiết kiệm và tất cả mọi người đều rất quảng đại.
Như thể thời gian chưa bao giờ trôi qua kể từ đó, mỗi Chúa Nhật, chúng ta cũng thế, trong cử hành Thánh Thể, chúng ta thực hiện cùng một cử chỉ bằng cách đặt làm của chung những dâng cúng của chúng ta để cộng đoàn cung cấp cho nhu cầu của người nghèo nhất. Đó là một dấu hiệu mà các Kitô hữu đã luôn thực hiện cách vui tươi và với ý thức trách nhiệm, để không anh chị em nào thiếu cái cần thiết. Lời kể của thánh Justin vào thế kỷ II mô tả việc các Kitô hữu vào thời hoàng đế Antonius Pius cử hành ngày Chúa Nhật làm chứng cho điều đó : « Vào ngày được gọi là « ngày của mặt trời », tất cả mọi người, trong các thành phố và ở nông thôn, đều quy tụ về cùng một nơi : chúng tôi đọc hồi ký của các Tông đồ và các tác phẩm của các ngôn sứ, trong thời gian cho phép. […] Rồi diễn ra việc phân phát và chia sẻ cho mỗi người những thứ đã được thánh hiến và chúng tôi gởi phần của họ cho những người vắng mặt qua thừa tác vụ phó tế. Ai dư dật, và muốn cho thì tự do cho mỗi người những gì mình muốn, và những gì gom góp được thì giao cho vị chủ sự. Ngài trợ giúp trẻ mồ côi, những người góa bụa, bệnh tật, nghèo khổ, tù nhân, khách lạ, nói tóm lại, ngài trợ giúp tất cả những ai đang gặp khó khăn » (Première Apologie, LXVII, 1-6).
4. Trở lại với cộng đoàn ở Côrintô, sự dấn thân bắt đầu suy yếu sau nhiệt thành ban đầu, và sáng kiến được thánh Tông đồ đề nghị đã mất đi sự nhiệt tình. Đó là lý do thúc đẩy thánh Phaolô viết cách say mê để khởi động lại việc quyên góp : « Anh em hãy hoàn thành công cuộc đó, để như anh em đã hăng hái quyết định thế nào, thì cũng tùy khả năng mà hoàn thành như vậy » (2Cr 8, 11).
Vào lúc này tôi nghĩ đến sự sẵn sàng của toàn thể dân chúng, trong những năm gần đây, đã mở cửa đón tiếp hàng ngàn người tỵ nạn chiến tranh ở Trung Đông, Trung Phi và bây giờ là Ucraina. Các gia đình đã mở rộng nhà cửa để dành chỗ cho các gia đình khác, và các cộng đoàn đã đón tiếp cách quảng đại nhiều phụ nữ và trẻ em để họ có được phẩm giá xứng đáng. Tuy nhiên, xung đột càng kéo dài, thì hậu quả càng trở nên tồi tệ. Các dân tộc đón tiếp càng gặp khó khăn trong việc đảm bảo tính liên tục của hoạt động cứu trợ ; các gia đình và các cộng đồng bắt đầu cảm thấy sức nặng của một hoàn cảnh vượt quá sự cấp bách. Đây là lúc không được suy yếu và là lúc làm mới động lực ban đầu. Những gì chúng ta đã bắt đầu phải được hoàn thành với cùng một trách nhiệm.
5. Quả thế, tình liên đới chính là điều này : chia sẻ chút ít chúng ta có với những người không có gì, để không ai đau khổ. Ý thức về cộng đồng và sự hiệp thông như môt phong cách sống càng gia tăng, thì tình liên đới càng được phát triển. Hơn nữa, cần phải xem xét rằng có những nước mà, trong những thập niên này, đã có một sự gia tăng đáng kể về phúc lợi cho nhiều gia đình, vốn đạt tới một sự an toàn trong cuộc sống. Đó là kết quả tích cực của sáng kiến tư nhân và của luật pháp đã hỗ trợ sự tăng trưởng kinh tế, kết hợp với sự khuyến khích cụ thể đối với các chính sách gia đình và trách nhiệm xã hội. Di sản về an toàn và ổn định đạt được giờ đây có thể được chia sẻ với những người buộc phải rời bỏ nhà cửa và đất nước của mình để tự cứu lấy bản thân và sống sót. Với tư cách là thành viên của xã hội dân sự, chúng ta hãy duy trì sống động lời mời gọi đến các giá trị tự do, trách nhiệm, tình huynh đệ và sự liên đới. Và với tư cách Kitô hữu, chúng ta hãy luôn tìm thấy nơi đức ái, đức tin và đức cậy nền tảng cho con người và hoạt động của chúng ta.
Đức Phanxicô dùng bữa với người nghèo ở Florence vào tháng 11/2015
6. Thật thú vị khi nhận thấy rằng thánh Tông đồ không muốn cưỡng ép các Kitô hữu bằng cách bó buộc họ làm việc bác ái. Quả thế, ngài viết : « Tôi nói thế không phải để ra lệnh cho anh em đâu » (2Cr 8, 8). Trái lại, ngài muốn « kiếm chứng tính xác thực » của tình yêu thương của họ trong việc chú ý và quan tâm đến người nghèo (x. ibid.). Nền tảng của yêu cầu của thánh Phaolô chắc chắn là sự cần thiết của một sự giúp đỡ cụ thể, nhưng ý định của ngài còn đi xa hơn. Ngài mời gọi thực hiện việc quyên góp để nó là dấu hiệu của tình yêu, như chính Chúa Giêsu đã chứng tỏ. Nói tóm lại, lòng quảng đại đối với người nghèo tìm thấy động lực mạnh mẽ nhất nơi sự chọn lựa của Con Thiên Chúa, chính Người đã muốn trở nên nghèo khó.
Quả thế, thánh Tông đồ không ngại khẳng định rằng sự chọn lựa này của Chúa Kitô, sự « trút bỏ » của Người, là một « ân sủng », thậm chí là « sự tự do của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta » (2Cr 8, 9), và chỉ bằng cách đón nhận Người mà chúng ta có thể mang lại một sự diễn tả cụ thể và mạch lạc cho đức tin của mình. Giáo huấn của toàn bộ Tân Ước tìm thấy sự thống nhất xung quanh chủ đề này vốn cũng được phản ảnh nơi những lời của thánh Giacôbê Tông đồ : «Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo -luật mang lại tự do-, ai thi hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm » (Gc 1, 22-25).
7. Đối diện với người nghèo, chúng ta không hùng biện, nhưng xắn tay áo lên và thực hành đức tin bằng việc tham gia trực tiếp mà không thể ủy thác cho bất cứ ai. Đôi khi, một hình thức buông thả có thể chiếm ưu thế, dẫn đến những hành xử thiếu nhất quán, như sự thờ ơ đối với người nghèo. Cũng có thể xảy ra rằng một số Kitô hữu, do gắn bó thái quá với tiền bạc, đã sa lầy vào việc lạm dụng của cải và di sản. Đó là những hoàn cảnh biểu lộ một đức tin yếu kém và một niềm hy vọng yếu ớt và thiển cận.
Chúng ta biết rằng vấn đề không nằm ở tiền bạc, vì nó là một phần của cuộc sống hằng ngày của con người và các mối tương quan xã hội. Điều chúng ta cần suy nghĩ, đúng hơn là giá trị mà tiền bạc mang lại cho chúng ta : nó không thể trở thành tuyệt đối, như thể nó là mục đích chính. Sự gắn bó như vậy ngăn cản chúng ta nhìn cách thực tế vào cuộc sống hằng ngày và làm mờ đi cái nhìn bằng cách ngăn nhìn thấy nhu cầu của người khác. Không có gì nguy hại có thể xảy ra cho một Kitô hữu hay một cộng đoàn hơn là bị lóa mắt bởi ngẫu tượng của sự giàu có mà cuối cùng dẫn đến một cái nhìn về cuộc sống phù du và suy yếu.
Vì thế, vấn đề không phải là có một hành vi trợ giúp người nghèo, như thường lệ ; trái lại, cần phải dấn thân để không ai thiếu đi cái cần thiết. Không phải chủ nghĩa hoạt động cứu thoát, nhưng là sự quan tâm chân thành và quảng đại, cho phép đến gần người nghèo như một người anh em dang tay ra, đưa tôi ra khỏi sự đờ đẫn mà tôi đã rơi vào. Vì thế, « không ai được nói rằng mình cách xa người nghèo bởi vì những chọn lựa sống của mình khiến mình quan tâm đến các nhiệm vụ khác hơn. Đây là một lời biện hộ thường xuyên trong giới học thuật, doanh nghiệp hay chuyên nghiệp, và ngay cả trong Giáo hội. […] Không ai có thể được miễn quan tâm đến người nghèo và công bằng xã hội » (Tông huấn Evangelii gaudium, số 201). Điều cấp bách là phải tìm ra những con đường mới có thể vượt quá ý tưởng của các chính sách xã hội này vốn « được quan niệm như một chính sách hướng tới người nghèo, nhưng không bao giờ với người nghèo, không bao giờ cho người, và còn ít được đưa vào một kế hoạch tập hợp các dân tộc » (Thông điệp Fratelli tutti, số 169). Đúng hơn, cần phải có khuynh hướng áp dụng thái độ của thánh Tông đồ, người đã có thể viết cho các tín hữu Côrintô : « Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều » (2Cr 8, 13).
8. Có một nghịch lý khó chấp nhận, hôm nay cũng như hôm qua, vì nó đi ngược lại với lôgíc nhân loại : có một sự nghèo khó làm cho giàu có. Nhắc lại « ân sủng » của Chúa Giêsu Kitô, thánh Phaolô muốn xác nhận những gì mà chính ngài đã rao giảng, tức là sự giàu có đích thực không hệ tại ở tích lủy « những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi » (Mt 6, 19), nhưng là ở trong một tình yêu hỗ tương, mang gánh nặng cho nhau để không ai bị bỏ rơi hay loại trừ. Kinh nghiệm về sự yếu đuối và những giới hạn mà chúng ta đã trải qua trong những năm vừa qua, và bây giờ là thảm kịch của một cuộc chiến tranh với những hậu quả toàn cầu, phải dạy cho chúng ta một điều quyết đinh : chúng ta không ở trong thế giới để sống sót, nhưng để mỗi người được sống một cuộc sống xứng đáng và hạnh phúc. Sứ điệp của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy con đường và giúp chúng ta khám phá ra rằng có một sự nghèo khó hạ nhục và giết chết, và có một sự nghèo khó khác, sự nghèo khó của Người, giải thoát và làm cho thanh thản.
Sự nghèo khó giết chết, đó là sự khốn khổ, con đẻ của sự bất công, bóc lột, bạo lực và sự phân phối tài nguyên bất công. Đó là sự nghèo khó vô vọng, không có tương lai, bởi vì nó bị áp đặt bởi nền văn hóa vứt bỏ vốn không mang lại triển vọng cũng như lối thoát. Sự khốn khổ, trong khi nó áp đặt một điều kiện nghèo cùng cực, cũng tác động đến chiều kích thiêng liêng, một chiều kích cho dù thường bị bỏ quên, nhưng vẫn tồn tại và có giá trị. Cuối cùng, khi quy luật duy nhất trở thành luật tính toán lợi ích, thì không còn bất kỳ trở ngại ngào cho lôgíc bóc lột con người : tha nhân chỉ là phương tiện. Tiền lương công bằng, giờ làm việc công bằng không còn tồn tại nữa, và những hình thức nô lệ mới được tạo ra, bị chịu đựng bởi những người không có giải pháp thay thế và phải chấp nhận sự bất công độc hại này để kiếm được một khoản tối thiểu cho cuộc sống của mình.
Trái lại, sự nghèo khó giải thoát là sự nghèo khó được đặt trước mắt chúng ta như một chọn lựa có trách nhiệm để giảm bớt sự nặng nề và tập trung vào điều cốt yếu. Trên thực tế, chúng ta thường xuyên gặp cảm giác không thỏa mãn này mà nhiều người nghiệm thấy vì họ cảm thấy mình đang thiếu một điều gì đó quan trọng, và đi tìm kiếm nó như những người lang thang, không có mục đích. Ước ao tìm thấy những gì có thể thỏa mãn mình, họ cần được hướng tới những người bé nhỏ, yếu thế, nghèo khổ để cuối cùng hiểu những gì họ thực sự cần đến. Gặp gỡ người nghèo cho phép chấm dứt nhiều nỗi lo âu và sợ hãi lông bông, cho phép đạt tới những gì quan trọng thực sự trong cuộc sống và không ai có thể cướp được khỏi chúng ta : tình yêu đích thực và cho không. Trên thực tế, người nghèo, trước khi là đối tượng của việc bố thí của chúng ta, đã là những chủ thể giúp chúng ta giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của lo lắng và hời hợt.
Một Giáo Phụ và là tiến sĩ Hội Thánh, thánh Gioan Kim Khẩu, trong các tác phẩm của mình, nơi người ta thấy những tố giác mạnh mẽ chống lại cách cư xử của người Kitô hữu đối với những người nghèo khổ nhất, đã viết : « Nếu bạn không tin rằng sự nghèo khổ tạo ra sự giàu có, thì hãy nghĩ đến Thầy của bạn, và bạn sẽ không còn nghi ngờ gì nữa. Vì nếu Người không trở nên nghèo khó, thì bạn sẽ không trở nên giàu có. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là sự nghèo khó đã làm phong phú sự giàu có ! Chính ở đây, qua từ « giàu có », thánh Phaolô muốn nói về sự hiểu biét về đạo đức, việc thánh tẩy tội lỗi chúng ta, công bằng, sự thánh hóa, và vô số điều thiện hảo mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta » (Bài giảng về Thư thứ hai gởi tín hữu Côrintô, 17, 1).
9. Bản văn của thánh Tông đồ mà Ngày Thế giới người nghèo lần thứ VI này dựa vào, cho thấy một nghịch lý lớn trong đời sống đức tin : sự nghèo khó của Chúa Kitô làm cho chúng ta giàu có. Nếu thánh Phaolô có thể đưa ra giáo huấn này – và Giáo hội đã phổ biến và làm chứng cho điều đó qua nhiều thế kỷ – thì đó là bởi vì Thiên Chúa, nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu, đã chọn và đi theo con đường này. Nếu Người đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, thì như thế chính cuộc sống của chúng ta được soi sáng và biến đổi từ đó, và thủ đắc một giá trị mà thế giới không biết đến và không thể mang lại. Sự giàu có của Chúa Giêsu là tình yêu của Người vốn không khép kín với ai và đến gặp gỡ tất cả mọi người, cách riêng những người bị gạt ra bên lề xã hội và thiếu thốn cái cần thiết. Vì tình yêu, Người đã hóa mình ra không và đảm nhận thân phận con người. Vì tình yêu, Người đã trở nên người tôi tớ vâng phục, cho đến chết và chết trên thập giá (x. Pl 2, 6-8). Vì tình yêu, Người đã trở nên « bánh ban sự sống » (Ga 6, 35), để không ai thiếu cái cần thiết và có thể tìm thấy lương thực nuôi dưỡng cho sự sống đời đời. Ngay cả ngày nay, cũng như đối với các môn đệ của Chúa lúc đó, dường như khó chấp nhận giáo huấn này (x. Ga 6, 60) ; nhưng lời của Chúa Giêsu là rõ ràng.
Nếu chúng ta muốn rằng sự sống chiến thắng sự chết và nhân phẩm được giải thoát khỏi sự bất công, thì con đường là con đường của Người : nó hệ tại việc noi theo sự khó nghèo của Chúa Giêsu Kitô, chia sẻ cuộc sống vì yêu thương, bẻ tấm bánh cuộc sống của mình với anh chị em, bằng cách bắt đầu với những người rốt hết, những người thiếu cái cần thiết, để thực hiện sự bình đẳng, để người nghèo được giải thoát khỏi khốn khổ và người giàu thoát khỏi sự hư danh, tất cả hai đều không có hy vọng.
10. Ngày 15 tháng Năm vừa qua, tôi đã phong thánh cho Anh Charles de Foucaul, một người sinh ra giàu có đã từ bỏ mọi sự để bước theo Chúa Giêsu và trở nên nghèo với Người và anh em của tất cả mọi người. Cuộc sống ẩn tu của anh, trước tiên ở Nadarét rồi trong sa mạc Sahara, được làm nên bởi sự thinh lặng, cầu nguyện và chia sẻ, là một chứng tá mẫu mực về sự nghèo khó Kitô giáo. Sẽ tốt cho chúng ta khi suy niệm lời của anh : « Chúng ta đừng khinh người nghèo, người bé mọn ; không chỉ đó là anh chị em của chúng ta trong Thiên Chúa, nhưng còn là những người bắt chước Chúa Giêsu cách hoàn hảo nhất trong cuộc sống bên ngoài của Người : họ biểu lộ Chúa Giêsu cách hoàn hảo cho chúng ta, Người Thợ thành Nadarét. Họ là những anh cả trong số những người được chọn, là những người đầu tiên được mời gọi đến cái nôi của Đấng Cứu Độ. Họ là những người bạn đồng hành thường xuyên của Chúa Giêsu, từ khi Người sinh ra cho đến khi chết. Chúng ta hãy tôn vinh họ, cha ta hãy tôn vinh nơi họ những hình ảnh của Chúa Giêsu và của cha mẹ thánh thiện của Người […]. Chúng ta hãy nhận lấy [thân phận] mà Người đã nhận lấy cho chính mình […]. Đừng bao giờ ngừng trở nên nghèo khó trong mọi sự, hỡi các anh em của người nghèo, hỡi các bạn đồng hành của người nghèo, hãy trở nên những người nghèo nhất của người nghèo như Chúa Giêsu, và như Người, chúng ta hãy yêu thương người nghèo và để họ bao bọc chúng ta » (1). Đối với Anh Charles, đó không chỉ là lời nói, nhưng là một phong cách sống cụ thể, dẫn anh đến chia sẻ với Chúa Giêsu chính món quà sự sống.
Ước gì Ngày Thế giới người nghèo lần thứ VI này trở nên cơ hội ân sủng để kiểm điểm lương tâm cá nhân và cộng đồng và là cơ hội để chúng ta tự hỏi liệu sự nghèo khó của Chúa Giêsu Kitô là nguời bạn đời trung thành của chúng ta hay không.
Rôma, Đền thờ Thánh Gioan Latêranô, ngày 13 tháng 6 năm 2022, kính nhớ thánh Antôn Pađôva.
PHANXICÔ
———————————————
(1) bài suy niệm số 236 về Lc 2, 8-20 : C. de Foucauld, La Bonté de Dieu. Méditations sur les saints Évangiles (1), Nouvelle Cité, Montrouge 1996, pp. 214-216.
—————————————-
Tý Linh chuyển ngữ
(nguồn : vatican.va)