Tông Huấn Hãy Vui Mừng Hoan Hỉ (Gaudete Et Exsultate) – Tiếp theo và hết


TRONG CỘNG ĐOÀN

  1. Khi chúng ta sống xa cách người khác, thật khó để chống lại nhục dục, chống lại những cái bẫy, những cám dỗ của ma quỉ, và sự ích kỷ trong thế gian. Bị tấn công dồn dập bởi quá nhiều lực lôi kéo, chúng ta có thể trở nên quá cô lập, đánh mất cảm thức về thực tại và sự trong sáng bên trong, và dễ dàng đầu hàng.
  2. Lớn lên trong sự thánh thiện là một hành trình trong cộng đoàn, sát cánh với những người khác. Chúng ta thấy điều này nơi một số cộng đoàn thánh thiện. Lúc này lúc khác, Giáo hội đã tuyên thánh trọn cả những cộng đoàn đã sống Tin Mừng một cách anh hùng hay đã dâng hiến cho Thiên Chúa sự sống của tất cả các thành viên. Chẳng hạn, chúng ta có thể nghĩ tới bảy vị sáng lập thánh thiện của Dòng Tôi Tớ Đức Maria, bảy Chân phúc nữ tu thuộc đan viện đầu tiên của Dòng Thăm Viếng ở Madrid, các thánh tuẫn đạo Nhật Bản: Paul Miki và các bạn, các thánh tuẫn đạo Triều Tiên: Andrew Taegon và các bạn, hay các thánh tuẫn đạo Nam Mỹ: Roque González, Alonso Rodríguez và các bạn. Chúng ta cũng nên nhớ lại các chứng tá gần đây hơn của các đan sĩ Trappist ở Tibhirine, Algeria, là những người đã chuẩn bị trong tư cách một cộng đoàn để sẵn sàng tuẫn đạo. Trong nhiều cuộc hôn nhân thánh thiện cũng thế, mỗi người phối ngẫu trở thành một phương tiện Đức Kitô dùng để thánh hóa người kia. Việc sống hay làm việc cùng với những người khác chắc chắn là một con đường trưởng thành thiêng liêng. Thánh Gioan Thánh Giá nói với một trong các môn đệ ngài: “Bạn đang sống với những người khác để được uốn nắn và thử thách”. [104]
  3. Mỗi cộng đoàn được mời gọi kiến tạo “một không gian được Thiên Chúa chiếu sáng để kinh nghiệm sự hiện diện giấu ẩn của Chúa Phục sinh trong đó”. [105] Việc chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể với nhau đẩy mạnh tình huynh đệ và làm cho chúng ta trở thành một cộng đoàn thừa sai thánh thiện. Điều đó cũng đem lại những kinh nghiệm thần bí đích thực chia sẻ chung với nhau. Đó là trường hợp của các thánh Biển Đức và Scholastica. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến kinh nghiệm thiêng liêng tuyệt vời được chia sẻ bởi Thánh Augustinô và Thánh Monica. “Hôm ấy, gần tới ngày mẹ con rời khỏi đời này – ngày mà Chúa biết rõ, còn chúng con thì không – đã xảy ra một chuyện mà con tin là đã do Chúa sắp đặt theo đường lối nhiệm mầu của Chúa: lúc đó chỉ có hai mẹ con chúng con đứng tựa cửa sổ quay ra thửa vườn bên cạnh… Chúng con nao nức mở rộng tâm hồn hớp lấy những dòng suối từ trời cao đổ xuống, nước suối nguồn của Chúa, suối ban sự sống bắt nguồn từ Chúa… Và khi chúng con nói về lẽ khôn ngoan ấy và đắm chìm trong đó, chúng con đã chạm được nó một mức nào đó bằng động lực của trái tim mình… sự sống vĩnh cửu có thể giống một khoảnh khắc khai trí như thế mà bây giờ chúng con luyến tiếc”. [106]
  4. Tuy nhiên, những kinh nghiệm như thế không thường xảy ra, mà cũng không phải là điều quan trọng nhất. Đời sống chung, dù là trong gia đình, giáo xứ, cộng đoàn tu trì hay bất cứ cộng đoàn nào khác, được hình thành bởi những điều nhỏ nhặt thường ngày. Đó là trường hợp của cộng đoàn thánh được hình thành bởi Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse, ở đó phản ảnh một cách mẫu mực vẻ đẹp của mối hiệp thông Chúa Ba Ngôi. Đó cũng là đời sống mà Chúa Giêsu chia sẻ với các môn đệ và với dân chúng.
  5. Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu yêu cầu các môn đệ chú ý đến các chi tiết.

Chi tiết nhỏ như chuyện hết rượu tại một tiệc cưới.

Chi tiết nhỏ như chuyện lạc mất một con chiên.

Chi tiết nhỏ như việc nhận ra bà góa dâng cúng hai đồng tiền kẽm.

Chi tiết nhỏ như việc mang dầu dự phòng cho đèn, phòng trường hợp chàng rể đến trễ.

Chi tiết nhỏ như việc hỏi xem các môn đệ có bao nhiêu chiếc bánh.

Chi tiết nhỏ như việc nhóm một bếp lửa và nướng cá khi chờ các môn đệ lúc rạng sáng.

  1. Một cộng đoàn biết trân quí những chi tiết nhỏ của tình yêu, [107] trong đó các thành viên quan tâm đến nhau, tạo ra một môi trường cởi mở và có sức loan báo Tin Mừng, đó là một nơi mà Chúa Phục sinh hiện diện, thánh hóa nó theo kế hoạch của Chúa Cha. Có những lúc mà nhờ một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa, chúng ta được ban cho – giữa các chi tiết nhỏ nhặt kia – những kinh nghiệm đầy an ủi của Thiên Chúa. “Một tối mùa đông, con đang làm việc bổn phận bé nhỏ của con như thường lệ… Thình lình, con nghe từ xa tiếng đàn du dương. Rồi con nhìn thấy một phòng khách sáng rực ánh đèn, trang hoàng rực rỡ, với nhiều quí nương trong trang phục quí phái đang trò chuyện và trao cho nhau những lời khen ngợi đủ kiểu, những trầm trồ tán tụng của trần thế. Rồi con quay lại nhìn người chị em đau ốm mà con đang săn sóc. Ở đây con không nghe thấy tiếng nhạc du dương, mà thay vào đó chỉ nghe những tiếng than thở bất chợt của chị ấy… Con không thể diễn tả thành lời điều mình cảm nghiệm trong linh hồn; điều con biết chắc đó là Chúa đã chiếu sáng nó với những tia sáng của sự thật vượt quá vẻ rực rỡ nhưng mờ mịt của những lễ hội thế gian mà con không thể tin là hạnh phúc của mình”. [108]
  2. Tương phản với chủ nghĩa cá nhân đẫm màu tiêu thụ đang lan tràn và có khuynh hướng cô lập chúng ta trong việc hăm hở tìm kiếm ích lợi cho mình tách rời khỏi người khác, nẻo đường thánh thiện chỉ có thể làm cho chúng ta ăn khớp hơn với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Xin cho tất cả nên một; như Cha ở trong con, và như con ở trong Cha” (Ga 17,21).

TRONG CẦU NGUYỆN LIÊN LỈ

  1. Cuối cùng, dù dường như đã quá hiển nhiên, chúng ta cần nhớ rằng sự thánh thiện hệ tại ở sự mở ra thường xuyên với siêu việt, được diễn tả trong cầu nguyện và thờ phượng. Các thánh được nhận diện bởi một tinh thần cầu nguyện và một niềm khát khao hiệp thông với Thiên Chúa. Các ngài nhận thấy rằng một mối quan tâm duy chỉ dành cho thế giới này thì chật hẹp và ngột ngạt, và ở giữa các mối quan tâm và dấn thân của mình, các ngài khát khao Thiên Chúa, đắm chìm trong việc ca ngợi và chiêm ngắm Chúa. Tôi không tin vào sự thánh thiện mà không có cầu nguyện, dù đó là việc cầu nguyện không kéo dài hay gắn với những cảm xúc sâu đậm.
  2. Thánh Gioan Thánh Giá bảo chúng ta: “Hãy cố gắng ở lại thường xuyên trong sự hiện diện của Thiên Chúa – dù là hiện diện thực tế, hay tưởng tượng, hay kết hợp – trong mức độ mà các công việc của bạn cho phép”. [109] Cuối cùng, niềm khát khao Thiên Chúa nơi chúng ta chắc chắn sẽ được diễn tả trong đời sống hằng ngày: “Hãy cố gắng cầu nguyện liên lỉ, ngay khi tập thể dục cũng đừng bỏ cầu nguyện. Dù anh em ăn, uống, chuyện trò, hay làm bất cứ gì, hãy luôn luôn đến với Thiên Chúa và đặt trái tim mình nơi Ngài”. [110]
  3. Tuy nhiên, để được như vậy, cũng cần có một số khoảnh khắc chỉ dành cho Thiên Chúa thôi. Đối với Thánh Têrêsa Avila, cầu nguyện “không là gì khác ngoài một tương giao tình bạn, và việc chuyện trò riêng tư thường xuyên với Đấng mà chúng ta biết rằng Ngài yêu thương chúng ta”. [111] Tôi muốn nhấn mạnh rằng điều này đúng không chỉ cho một thiểu số được đặc ân, nhưng là cho tất cả chúng ta, vì “tất cả chúng ta cần sự thinh lặng này, sự thinh lặng đầy tràn sự hiện diện của Đấng mình tôn thờ”. [112] Lời cầu nguyện đầy tin tưởng là sự đáp trả của một trái tim mở ra cho việc gặp gỡ Thiên Chúa mặt đối mặt, trong đó tất cả đều an bình và tiếng nói thầm thì của Chúa có thể được nghe thấy giữa thinh lặng.
  4. Trong sự thinh lặng đó, nhờ ánh sáng của Thánh Thần, chúng ta có thể phân định những nẻo đường thánh thiện mà Chúa mời gọi mình. Nếu chẳng vậy, bất cứ quyết định nào của chúng ta cũng có thể chỉ là chuyện bề mặt giả tạo, trong đó thay vì thượng tôn Tin Mừng trong đời sống thì các quyết định ấy sẽ che lấp hay nhận chìm Tin Mừng. Đối với mỗi người môn đệ, thật thiết yếu phải dành thời giờ với Thầy, lắng nghe lời Thầy, và luôn luôn học nơi Thầy. Nếu chúng ta không lắng nghe, tất cả lời lẽ của chúng ta sẽ chẳng là gì ngoài những tiếng nói vô ích.
  5. Cần nhớ rằng “việc chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, sẽ phục hồi nhân tính của chúng ta, ngay cả khi nhân tính ấy đã bị tan vỡ bởi những lộn xộn của đời sống này, hay đã hư hỏng do tội lỗi. Chúng ta không được làm suy yếu sức mạnh của khuôn mặt Đức Kitô”. [113] Vì thế xin cho phép tôi đặt câu hỏi: Có chăng những khoảnh khắc bạn thinh lặng đặt mình trong sự hiện diện của Chúa, những khi mà bạn thanh thản dành thời giờ với Người, cho phép Người đăm chiêu nhìn bạn? Bạn có để cho ngọn lửa của Người cháy lên trong lòng mình không? Trừ phi bạn cho phép Người đốt nóng mình thêm nữa với tình yêu và sự dịu dàng của Người, bạn sẽ không thể bắt lửa được. Như vậy thì làm sao bạn có thể đốt nóng trái tim người khác bằng lời nói và chứng tá của bạn? Nếu khi chăm chú nhìn khuôn mặt của Đức Kitô bạn cảm thấy khó khăn việc để cho Người chữa lành và biến đổi mình, thì bạn hãy đi vào trong trái tim của Chúa, đi vào trong các vết thương của Người, vì đó là chỗ của lòng thương xót thần linh. [114]
  6. Tôi kêu gọi tất cả chúng ta đừng bao giờ xem sự thinh lặng cầu nguyện như một hình thức trốn tránh và quay lưng lại với thế giới xung quanh mình. Nhà hành hương người Nga nọ, là người cầu nguyện không ngừng, đã nói rằng việc cầu nguyện như thế không tách mình ra khỏi những gì đang xảy ra xung quanh. “Mọi người thật tốt với tôi; dường như mọi người đều yêu thương tôi… Tôi không chỉ cảm thấy [hạnh phúc và được an ủi] trong tâm hồn mình, mà tôi cảm nhận tất cả thế giới bên ngoài dường như cũng đầy ắp nét diễm lệ và niềm vui”. [115]
  7. Lịch sử cũng không biến mất. Vì cầu nguyện được nuôi dưỡng bởi ân ban của Thiên Chúa vốn hiện diện và hoạt động trong đời sống chúng ta, nên cầu nguyện cũng luôn luôn được đánh dấu bởi sự hồi tưởng. Ký ức về các công trình Chúa thực hiện là trung tâm của kinh nghiệm giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Thiên Chúa đã muốn đi vào lịch sử, và vì thế việc cầu nguyện của chúng ta được đan kết với các ký ức. Chúng ta hồi tưởng không chỉ Lời mặc khải của Ngài, mà còn về đời sống của chúng ta, đời sống của những người khác, và tất cả những gì Chúa đã làm trong Giáo hội. Đây là ký ức hồng phúc mà Thánh Inhaxiô Loyola qui chiếu đến trong bài “Chiêm Niệm để được Tình Yêu” của ngài, [116] khi thánh nhân mời gọi chúng ta ý thức về tất cả những hồng ân mà chúng ta nhận được từ Chúa. Hãy nghĩ đến lịch sử cuộc đời bạn khi bạn cầu nguyện, và trong đó bạn sẽ gặp thấy rất nhiều lòng thương xót. Điều này cũng sẽ giúp bạn ý thức hơn rằng Chúa luôn nghĩ đến bạn; Người không bao giờ quên bạn. Vì thế thật là ý nghĩa việc xin Chúa soi sáng những chi tiết nhỏ nhất của đời bạn, vì Người thấy rõ tất cả.
  8. Lời cầu nguyện khẩn nài là một diễn tả của trái tim tin tưởng vào Thiên Chúa và nhìn nhận rằng tự mình chẳng làm được gì. Đời sống của những người trung thành với Thiên Chúa được đánh dấu bởi sự khẩn nài thường xuyên xuất phát từ tình yêu thấm đẫm đức tin và lòng tin tưởng vững vàng. Chúng ta đừng xem nhẹ lời cầu nguyện thỉnh cầu, vốn thường giúp chúng ta an tâm và có thể kiên trì hy vọng. Cầu nguyện chuyển cầu có một giá trị riêng, vì đó là một hành động của lòng tin tưởng vào Thiên Chúa và đồng thời là một diễn tả tình yêu đối với tha nhân. Có những người dựa trên một linh đạo phiến diện nào đó và nghĩ rằng cầu nguyện phải là việc chiêm ngắm Thiên Chúa cách thuần túy, thoát khỏi mọi chia trí, ví như việc nghĩ đến tên tuổi hay khuôn mặt của người ta cũng là điều cần tránh. Thế nhưng trong thực tế, việc cầu nguyện của chúng ta càng làm vui lòng Thiên Chúa và càng giúp ta lớn lên trong sự thánh thiện, nếu xuyên qua sự chuyển cầu, chúng ta cố gắng thực hành giới răn hai mặt mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta. Lời cầu nguyện chuyển cầu là một diễn tả mối quan tâm huynh đệ đối với người khác, vì chúng ta đang ôm lấy đời sống của họ, những lo lắng sâu xa nhất, và những giấc mơ cao quí nhất của họ. Chúng ta có thể mượn lời Thánh Kinh để nói về những người chuyên chăm cầu nguyện chuyển cầu như sau: “Đây là người yêu mến anh em mình và cầu nguyện nhiều cho dân chúng” (2Mac 15,14).
  9. Nếu nhìn nhận Thiên Chúa hiện hữu, chúng ta không thể không tôn thờ Ngài, có những khi trong sự ngạc nhiên âm thầm, và ca ngợi Ngài trong khúc ca rộn rã. Như vậy chúng ta chia sẻ trong kinh nghiệm của Chân Phước Charles de Foucauld: “Vừa khi tôi tin rằng có một Thiên Chúa, tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho Ngài”. [117] Trong đời sống của đoàn dân lữ hành của Chúa, có thể có nhiều thái độ thờ phượng tinh thuần rất giản dị, như khi “ánh mắt của người khách hành hương hướng về một hình ảnh diễn tả tình thương và sự gần gũi của Thiên Chúa. Yêu thương thì biết dừng lại, chiêm ngắm mầu nhiệm, và thưởng thức mầu nhiệm ấy trong thinh lặng”. [118]
  10. Việc đọc lời Chúa trong tâm tình cầu nguyện – lời “ngọt hơn mật” (Tv 119,103) nhưng cũng là “thanh gươm hai lưỡi” (Dt 4,12) – có thể giúp chúng ta dừng lại và lắng nghe tiếng nói của Tôn Sư. Nó trở thành một ngọn đèn soi chân ta bước và ánh sáng chỉ đường ta đi (x. Tv 119,105). Như các giám mục Ấn Độ lưu ý: “Lòng yêu mến lời Chúa không đơn thuần là một trong những việc mộ đạo, vốn đẹp đẽ nhưng tùy chọn. Nó đi vào trong chính trái tim và căn tính của đời sống Kitô hữu. Lời Chúa có năng lực biến đổi đời sống”. [119]
  11. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trong Thánh Kinh dẫn chúng ta đến với cử hành Thánh Thể, ở đó lời ghi trong sách đạt được hiệu lực cao quí nhất của nó, vì đó chính là Lời sống động trong hiện tại. Trong Thánh Lễ, vị Thiên Chúa độc nhất và đích thực nhận được sự tôn thờ tuyệt hảo mà thế giới có thể dâng cho Ngài, vì chính Đức Kitô được hiến dâng. Khi rước Thánh Thể, chúng ta làm mới lại giao ước với Ngài và cho phép Ngài thực hiện công trình biến đồi đời sống mình cách trọn vẹn hơn.

CHƯƠNG V

CUỘC CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG, TỈNH THỨC VÀ PHÂN ĐỊNH

  1. Đời sống Kitô hữu là một trận chiến không ngừng. Chúng ta cần sức mạnh và can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ và để loan báo Tin Mừng. Đây là trận chiến ngọt ngào, vì nó cho phép ta hoan hỉ mỗi lần Chúa khải thắng trong cuộc đời chúng ta.

CHIẾN ĐẤU VÀ TỈNH THỨC

  1. Chúng ta đang nói đến không chỉ cuộc chiến đấu chống lại thế gian và một não trạng trần tục đánh lừa mình, làm mình trở nên đần độn và xoàng xĩnh, thiếu nhiệt huyết và niềm vui. Cũng không thể giảm trừ cuộc chiến đấu này đến chỉ còn là chiến đấu chống lại những yếu đuối và những xu hướng của con người (dù đó là lười biếng, dâm dục, tham lam, ghen tị hay bất cứ gì khác). Đây còn là cuộc chiến đấu không ngừng chống lại ma quỉ, ông hoàng của sự dữ. Chính Chúa Giêsu mừng chiến thắng của chúng ta. Người hân hoan khi các môn đệ Người tiến hành tốt việc rao giảng Tin Mừng và thắng được sự đối đầu của thần dữ: “Thầy trông thấy Satan từ trời sa xuống như tia chớp” (Lc 10,18).

Hơn là một thần thoại

  1. Chúng ta sẽ không nhìn nhận rằng ma quỉ có thực, nếu khư khư nhìn đời sống chỉ bằng những tiêu chuẩn thường nghiệm, mà không có một nhận hiểu siêu nhiên. Quyền lực thâm hiểm này có mặt giữa chúng ta, xác tín này giúp ta hiểu tại sao có những lúc ma quỉ có sức mạnh hủy diệt đến vậy. Quả thực, các tác giả Thánh Kinh có sự hạn chế trong nhận thức khi diễn tả một số thực tại, và vào thời Chúa Giêsu thì sự động kinh, chẳng hạn, có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với tình trạng quỉ ám. Nhưng điều này không nên dẫn chúng ta tới một sự đơn giản hóa quá mức để kết luận rằng mọi trường hợp liên quan trong Tin Mừng đều có liên hệ với những rối loạn tâm lý, và vì thế ma quỉ không hiện hữu hay không hoạt động. Ma quỉ hiện hữu ngay nơi những trang đầu của Kinh Thánh, mà rốt cục là Thiên Chúa chiến thắng trên thần dữ. [120] Thật vậy, khi dạy chúng ta Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu muốn chúng ta kết thúc bằng việc xin Cha “cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Từ cuối cùng ấy không qui chiếu đến sự dữ một cách trừu tượng; một bản dịch chính xác hẳn sẽ nói là “thần dữ”. Nó hướng chỉ một hữu thể có ngôi vị tấn công chúng ta. Chúa Giêsu dạy chúng ta hằng ngày cầu nguyện xin được giải thoát khỏi nó, để quyền lực của nó không thống trị chúng ta.
  2. Vì thế, chúng ta không nên nghĩ về ma quỉ như một thần thoại, một tượng trưng, một biểu tượng, một hình tượng ngôn ngữ hay một ý niệm. [121] Sai lầm này sẽ dẫn ta tới chỗ khinh suất, bất cẩn và cuối cùng sẽ càng chênh vênh hơn. Ma quỉ không cần ám chúng ta. Nó đầu độc chúng ta với nọc độc hận thù, u uất, tham lam và đồi bại. Khi chúng ta khinh suất mất cảnh giác, nó lợi dụng thời cơ để phá hoại đời sống chúng ta, gia đình và cộng đoàn chúng ta. “Như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cấu xé” (1Pr 5,8).

Cảnh giác và tin tưởng

  1. Lời Chúa rõ ràng mời gọi chúng ta “đứng vững trước những mưu chước của ma quỉ” (Ep 6,11) và “dập tắt mọi mũi tên lửa của ác thần” (Ep 6,16). Những diễn tả này không hề cường điệu, bởi vì con đường nên thánh của chúng ta là một trận chiến liên lỉ. Những ai không nhận ra điều này sẽ làm mồi cho sự thất bại và xoàng xĩnh. Để chiến đấu trong cuộc chiến thiêng liêng này, chúng ta có thể dựa vào những vũ khí mạnh mẽ Chúa ban cho mình: cầu nguyện với thấm đẫm đức tin, suy niệm lời Chúa, cử hành Thánh Lễ, chầu Thánh Thể, lãnh bí tích Hòa Giải, làm việc bác ái, sống cộng đoàn, đi ra trong sứ mạng. Nếu chúng ta không bảo trọng, những lời hứa lừa gạt của ma quỉ sẽ dễ dàng dụ dỗ ta. Như cha Thánh Brochero ghi nhận: “Đâu là điều tốt đẹp khi Lucifer hứa cho bạn tự do, và tưới trên bạn tất cả những lợi lộc của nó, song đó lại là những lợi lộc giả tạo, lừa dối và độc hại?” [122]
  2. Dọc hành trình này, việc vun xới tất cả những gì là tốt đẹp, sự tiến triển trong đời sống thiêng liêng và sự lớn lên trong tình yêu sẽ là đối trọng tốt nhất chống lại ma quỉ. Những ai chọn giữ trung lập, những ai hài lòng với sự ít ỏi, những ai từ bỏ lý tưởng trao hiến chính mình cách quảng đại cho Chúa, họ sẽ không bao giờ đứng vững. Càng không thể đứng vững nếu người ta chủ bại, vì “nếu chúng ta bắt đầu với không chút tin tưởng, chúng ta đã thua nửa trận chiến rồi, và tự chôn vùi các khả năng của mình… Chiến thắng của Kitô giáo luôn luôn là một thập giá, nhưng thập giá ấy đồng thời là ngọn cờ chiến thắng, được mang vác với sự hiền dịu bất khuất chống lại những tấn công của ma quỉ”. [123]

Sự hư hỏng tâm linh

  1. Con đường thánh thiện là nguồn của bình an và niềm vui mà Chúa Thánh Thần ban tặng chúng ta. Đồng thời, nó đòi hỏi chúng ta giữ “ngọn đèn cháy sáng” (Lc 12,35) và tỉnh thức. “Hãy tránh xa mọi điều xấu, dưới bất cứ hình thức nào” (1Tx 5,22). “Hãy tỉnh thức” (Mt 24,42; Mc 13,35). “Chúng ta đừng mê ngủ” (1Tx 5,6). Những ai nghĩ rằng mình không phạm tội nặng nề chống lại luật Thiên Chúa thì có thể rơi vào một tình trạng u mê. Vì họ không nhận ra điều gì hệ trọng để ăn năn, họ không nhận ra rằng đời sống thiêng liêng của mình đang dần trở nên nguội lạnh. Cuối cùng họ yếu nhược và hư hỏng.
  2. Sự hư hỏng tâm linh thì tệ hại hơn cả sự sa ngã của một tội nhân, vì đó là một dạng mù quáng mà người ta cảm thấy thỏa mãn và yên ổn. Bấy giờ mọi sự được chấp nhận: dối trá, vu khống, tự cao và các hình thức qui ngã khác, vì “thậm chí Satan đội lốt một thiên thần của ánh sáng” (2Cr 11,14). Salômôn đã kết thúc cuộc đời như thế, trong khi Đavit, từng phạm tội tày đình, đã có thể sửa chữa lỗi lầm của mình. Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta chống lại sự tự lừa dối này, điều vốn dễ dẫn ta tới hư hỏng. Người nói về một người được giải thoát khỏi tên quỉ, nhưng nghĩ rằng đời sống của mình giờ đây đã ổn, vì thế cuối cùng bị khống chế bởi bảy thần dữ khác (x. Lc 11,24-26). Một bản văn Thánh Kinh khác diễn tả điều này một cách khủng khiếp: “Chó mửa ra, chó liền ăn lại” (2Pr 2,22; x. Cn 26,11).

PHÂN ĐỊNH

  1. Bằng cách nào chúng ta biết một điều gì đó đến từ Thánh Thần hay đến từ tinh thần của thế gian hoặc tinh thần của ma quỉ? Cách duy nhất là phân định, việc này đòi hỏi một điều gì đó hơn là trí năng hay lương thức. Đó là một ân ban mà chúng ta phải cầu xin. Nếu ta cầu xin với lòng tin tưởng Chúa Thánh Thần ban cho mình ơn này, rồi tìm cách phát triển nó trong cầu nguyện, suy tư, đọc và bàn hỏi, thì chắc chắn chúng ta sẽ lớn lên trong khả năng thiêng liêng này.

Một nhu cầu khẩn thiết

  1. Ơn phân định càng cần thiết hôm nay, vì đời sống hiện đại mở ra cơ man khả năng hành động và tiêu khiển, và thế giới trình bày tất cả chúng như cái gì hợp lệ và tốt. Tất cả chúng ta, đặc biệt là giới trẻ, bị nhận chìm trong một nền văn hóa vồ vập hối hả. Chúng ta có thể cùng một lúc lướt qua hai hay ba màn hình và tương tác đồng thời với hai hay ba chuyện ảo. Không có sự khôn ngoan phân định, chúng ta dễ dàng trở thành mồi ngon cho mọi trào lưu rẻ tiền.
  2. Điều này càng quan trọng hơn khi một cái gì mới mẻ bỗng xuất hiện trong đời sống. Bấy giờ chúng ta phải xác định xem nó có phải là rượu mới do Thiên Chúa đem lại, hay chỉ là một ảo ảnh đánh lừa được tạo ra bởi tinh thần thế tục hay tinh thần của ma quỉ. Có những lúc khác, xảy ra điều ngược lại, khi các sức mạnh của sự dữ xúi ta đừng thay đổi, cứ giữ mọi sự y như thế, và chọn thái độ khư khư đề kháng chống lại thay đổi. Nhưng như vậy là cản trở hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta tự do, với sự tự do của Đức Kitô. Tuy nhiên, Người mời gọi ta khảo sát những gì ở bên trong mình – những dục vọng, lo lắng, sợ hãi và nghi nan – và những gì diễn ra xung quanh mình – “các dấu chỉ của thời đại” – và qua đó nhận ra những nẻo đường dẫn tới sự tự do hoàn toàn. “Hãy khảo sát mọi sự; hãy bám vững những gì là tốt lành” (1Tx 5,21).

Luôn ở trong ánh sáng của Chúa

  1. Phân định là việc cần thiết không chỉ vào những thời khắc đặc biệt, khi chúng ta cần giải quyết những vấn đề lớn và đưa ra những quyết định quan trọng. Nó là một phương thế của cuộc chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta đi theo Chúa cách trung thành hơn. Chúng ta cần phân định mọi lúc, để có thể nhận ra kế hoạch mà Chúa sắp xếp, hầu tránh bỏ hụt những gợi ý Ngài ban cho và tránh xem thường lời Ngài mời gọi ta lớn lên. Rất thường, việc phân định được làm trong những việc nhỏ và có vẻ không phù hợp, vì sự cao cả của tinh thần được thể hiện trong những thực tại đơn giản hằng ngày. [124] Nó liên quan đến việc cố gắng sao cho không cản trở tất cả những gì là cao quí, những gì là tốt hơn và đẹp hơn, trong khi đồng thời quan tâm đến những chuyện nhỏ, những bổn phận và trách nhiệm trong đời sống hằng ngày. Vì thế, tôi kêu gọi tất cả các Kitô hữu đừng bỏ qua việc “khảo sát lương tâm” hằng ngày cách chân thành, được làm trong đối thoại với Chúa. Việc phân định cũng giúp chúng ta nhận ra những phương tiện cụ thể mà Chúa cung cấp trong kế hoạch yêu thương mầu nhiệm của Người, để thúc đẩy chúng ta không dừng lại chỉ ở những ý hướng tốt lành mà thôi.

Một ân ban siêu nhiên

  1. Chắc chắn việc phận định thiêng liêng không loại trừ những hiểu biết về hiện sinh, tâm lý, xã hội, hay luân lý rút từ các khoa học nhân văn. Đồng thời, nó siêu vượt các khoa học ấy. Các qui tắc đúng đắn của Giáo hội cũng không đủ. Chúng ta phải luôn nhớ rằng phân định là một ân sủng. Ngay cả dù nó bao gồm lý trí và sự khôn ngoan, nó vẫn vượt quá những điều ấy, vì nó tìm cách để có một cái nhìn thoáng kế hoạch nhiệm mầu và độc đáo mà Thiên Chúa định cho mỗi chúng ta, được định hình giữa rất nhiều hoàn cảnh và giới hạn khác nhau. Nó liên quan đến nhiều hơn là thiện ích đời này của tôi, sự mãn nguyện của tôi vì đạt được một cái gì đó hữu ích, hay thậm chí niềm khao khát bình an trong tâm trí của tôi. Nó liên hệ tới ý nghĩa cuộc sống của tôi trước mặt Chúa, Đấng biết và yêu tôi, và liên hệ tới mục đích thực sự của đời tôi, mà không ai biết rõ hơn chính Chúa. Cuối cùng, việc phân định dẫn tới nguồn mạch của sự sống bất diệt, đó là nhận biết Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất, và Đấng Chúa Cha sai đến là Chúa Giêsu Kitô (x. Ga 17,3). Việc phân định không đòi hỏi những khả năng đặc biệt, nó cũng không dành riêng chỉ cho những người thông minh hay đặc biệt học cao hiểu rộng. Chúa Cha sẵn sàng mặc khải chính Ngài cho những kẻ bé mọn (x. Mt 11,25).
  2. Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách, ví dụ, tại sở làm, qua những người khác, và vào bất cứ lúc nào. Nhưng rõ ràng chúng ta cần có sự thinh lặng của việc cầu nguyện thâm sâu, trong đó chúng ta dễ nắm hiểu tiếng nói của Chúa hơn, dễ diễn dịch ý nghĩa thực của những gợi ý mà ta tin rằng mình nhận được, dễ xua tan những lo lắng của mình và nhìn thấy toàn thể hiện hữu của mình cách mới mẻ trong ánh sáng của Chúa. Bằng cách này, chúng ta cho phép sự khai sinh của một tổng hợp mới vọt ra từ một đời sống được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần.

Lạy Chúa, xin hãy phán

  1. Tuy nhiên, có thể là ngay cả trong cầu nguyện, chúng ta cũng từ chối không cho phép mình đối diện với sự tự do của Chúa Thánh Thần, Đấng hành động hoàn toàn tự do. Chúng ta phải nhớ rằng việc phân định trong bầu khí cầu nguyện phải xuất phát từ một thái độ sẵn sàng lắng nghe: nghe Chúa, nghe người khác, và lắng nghe chính thực tại, vốn luôn thách đố chúng ta bằng những cách mới mẻ. Chỉ khi chúng ta đã sẵn sàng lắng nghe, thì chúng ta mới có đủ tự do để gác qua một bên những ý tưởng bất cập hay phiến diện của mình, những thói quen thường tình của mình và những cách mình nhìn mọi sự. Nhờ đó, chúng ta trở nên thực sự mở lòng ra để đón nhận một tiếng gọi có thể làm xáo trộn sự an toàn của mình, nhưng dẫn mình tới một đời sống tốt hơn. Thật không đủ duy chỉ sự kiện rằng mọi sự êm xuôi và ổn thỏa. Thiên Chúa có thể trao cho chúng ta một cái gì đó hơn thế, nhưng nếu cứ không chú tâm, thì chúng ta không thể nhận ra.
  2. Một cách tự nhiên, thái độ lắng nghe này gắn với tinh thần vâng phục đối với Tin Mừng xét như tiêu chuẩn tối hậu, và vâng phục cả đối với Huấn quyền vốn có nhiệm vụ bảo vệ tiêu chuẩn tối hậu ấy, khi chúng ta kiếm trong kho tàng của Giáo hội bất cứ gì có hiệu quả nhất cho công trình cứu độ “hôm nay”. Đó không phải là vấn đề áp dụng những qui tắc hay lặp lại những gì đã được làm trong quá khứ, bởi vì cùng những giải pháp nào đó thì không có hiệu lực trong tất cả mọi trường hợp, và điều hữu ích trong bối cảnh này thì có thể không hữu ích trong bối cảnh khác. Việc phân định các thần loại giải phóng chúng ta khỏi sự cứng nhắc, vốn không có chỗ trước cái “hôm nay” thường hằng của Chúa Phục sinh. Chỉ một mình Chúa Thánh Thần mới có thể xuyên thấu những gì mờ khuất và giấu ẩn trong mọi cảnh huống, và mới có thể nắm bắt mọi sắc thái của nó, để cho tính mới mẻ của Tin Mừng có thể hiện lộ trong một ánh sáng khác.

Luận lý của sự trao ban và của thập giá

  1. Một điều kiện thiết yếu để thăng tiến trong phân định, đó là việc nhận hiểu hơn nữa về sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và sự sắp xếp của Ngài, nó không bao giờ là sự sắp xếp của chúng ta. Thiên Chúa không đổ lửa xuống thiêu đốt những người bất trung (x. Lc 9,54), hay cho phép những người bốc đồng ra tay nhổ cỏ lùng mọc giữa lúa (x. Mt 13,29). Cũng cần phải có sự quảng đại, vì “cho thì tốt hơn là nhận” (Cv 20,35). Phân định không phải là để khám phá xem chúng ta có thể thu nhận gì thêm từ đời sống này, nhưng là để nhận ra bằng cách nào chúng ta có thể hoàn thành tốt hơn sứ mạng được ủy thác cho mình qua Phép Rửa. Điều này đòi một thái độ sẵn sàng hy sinh, ngay cả hy sinh mọi sự. Vì hạnh phúc là một nghịch lý. Chúng ta kinh nghiệm nó nhiều nhất khi chúng ta chấp nhận cái luận lý mầu nhiệm vốn không thuộc thế giới này: “Đây là luận lý của chúng tôi”, Thánh Bônavetura đã nói thế khi hướng chỉ về thập giá. [125] Một khi chúng ta đi vào trong năng động này, chúng ta sẽ không cho phép lương tâm mình bị tê cứng, và chúng ta sẽ cởi mở chính mình một cách quảng đại để phân định.
  2. Trong sự hiện diện của Thiên Chúa, khi chúng ta khảo sát hành trình đời sống của mình, không có lãnh vực nào là ngoài giới hạn. Trong tất cả các khía cạnh của đời sống, chúng ta đều có thể lớn lên và dâng hiến một cái gì đó quí hơn cho Thiên Chúa, ngay cả trong những lãnh vực mà ta thấy là khó khăn nhất. Nhưng chúng ta cần xin Chúa Thánh Thần giải phóng mình, và xua đuổi nỗi sợ vốn khiến ta gây cản trở sự thâm nhập của Thánh Thần vào một số vùng nào đó trong đời sống mình. Thiên Chúa mời gọi ta mọi thứ, nhưng Ngài cũng trao ban mọi thứ cho ta. Ngài không muốn đi vào đời sống chúng ta để làm mọi thứ bị què quặt hay tàn tạ, nhưng là để đưa chúng tới viên mãn. Vì thế phân định không phải là việc phân tích bản thân có tính qui ngã hay một hình thức nội quan nhuốm màu ích kỷ, nhưng đó là một tiến trình chân thực vượt qua chính mình để tiếp cận mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng giúp chúng ta đảm nhận sứ mạng mà Ngài mời gọi, vì ích lợi của anh chị em mình.

* * *

  1. Tôi muốn khép lại những suy tư này bằng vương miện của Đức Maria, vì Mẹ sống Các Mối Phúc của Chúa Giêsu hơn bất cứ ai. Mẹ là người phụ nữ hoan hỉ trong sự hiện diện của Thiên Chúa, là người ghi nhớ mọi sự trong lòng, và chấp nhận lưỡi gươm đâm thâu. Mẹ là vị thánh giữa các thánh, và được chúc phúc trên hết các thánh. Mẹ dạy chúng ta con đường nên thánh và Mẹ luôn bước đi bên cạnh chúng ta. Mẹ không để mặc chúng ta trong tình trạng sa ngã, và có những lúc Mẹ dang tay ôm lấy chứ không kết án chúng ta. Chuyện trò với Mẹ, chúng ta sẽ được an ủi, được giải phóng và được thánh hóa. Đức Maria, Mẹ chúng ta, không cần nhiều lời. Mẹ không cần chúng ta kể lể với Mẹ về những gì đang xảy ra trong đời sống mình. Chúng ta chỉ cần thì thầm, lặp đi lặp lại: “Kính mừng Maria…”
  2. Tôi hy vọng những trang này sẽ nên hữu ích trong việc giúp toàn thể Giáo hội dấn thân một cách mới mẻ thúc đẩy khát vọng nên thánh. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đổ tràn trên mình một khát khao cháy bỏng nên thánh, để vinh danh Chúa hơn, và chúng ta hãy khích lệ nhau trong nỗ lực này. Nhờ đó, chúng ta sẽ được chia sẻ một hạnh phúc mà thế gian này không thể tước khỏi chúng ta.

Tại Rôma, Đền thờ Thánh Phêrô, ngày 19 tháng 3, Lễ trọng kính Thánh Giuse, năm 2018, năm thứ sáu triều Giáo hoàng của tôi.

Phanxicô

 

——————————————

[1] BIỂN ĐỨC XVI, Bài giảng lễ nhậm chức Sứ vụ Phêrô (24.4.2005): AAS 97 (2005), 708.

[2] Điều này luôn giả định một danh tiếng về sự thánh thiện và việc thực hành các nhân đức Kitô giáo cách anh hùng, ít nhất trong mức độ thông thường: x. Motu Proprio Maiorem Hac Dilectionem (11.7. 2017), Art. 2c: L’Osservatore Romano, 12.7.2017, tr. 8.

[3] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ IILumen Gentium, 9.

[4] x. JOSEPH MALEGUE, Pierres noires. Les classes moyennes du Salut, Paris, 1958.

[5] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ IILumen Gentium, 12.

[6] Verborgenes Leben und Epiphanie: GW XI, 145.

[7] GIOAN PHAOLÔ II, Novo Millennio Ineunte (6.01.2001), 56: AAS 93 (2001), 307.

[8] Tertio Millennio Adveniente (10.11.1994), 37: AAS 87 (1995), 29.

[9] Bài giảng Lễ tưởng niệm các Chứng nhân Đức tin Thế kỷ 20 (7.5. 2000), 5: AAS 92 (2000), 680-681.

[10] Lumen Gentium, 11.

[11] x. HANS URS VON BALTHASAR, “Theology and Holiness”, trong Communio 14/4 (1987), 345.

[12] Khúc Linh Ca, Bản B, Lời tựa, 2.

[13] x. ibid., 14-15, 2.

[14] x. Giáo lý, Tiếp kiến chung, ngày 19.11.2014: Insegnamenti II/2 (2014), 555.

[15] PHANXICÔ SALÊSIÔ, Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa, VIII, 11.

[16] Năm chiếc bánh và hai con cá, Pauline Books and Media, 2003, tr. 9, 13.

[17] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC NEW ZEALAND, Tình yêu chữa lành, 01.01.1988.

[18] Linh thao, 102-312.

[19] Giáo lý Giáo hội Công giáo, 515.

[20] Ibid., 516.

[21] Ibid., 517.

[22] Ibid., 518.

[23] Ibid., 521.

[24] BIỂN ĐỨC XVI, Giáo lý, Tiếp kiến chung ngày 13.4.2011: Insegnamenti VII (2011), 451.

[25] Ibid., 450.

[26] x. HANS URS VON BALTHASAR, “Thần học và sự Thánh thiện”, trong Communio 14/4 (1987), 341-350.

[27] XAVIER ZUBIRI, Naturaleza, historia, Dios, Madrid, 19933, 427.

[28] CARLO M. MARTINI, Những lời tuyên xưng của Phêrô, Cinisello Balsamo, 2017, 69.

[29] Chúng ta cần phân biệt giữa loại giải trí hời hợt này và một nền văn hóa tiêu khiển lành mạnh, giúp ta mở ra với người khác và với chính thực tại trong một tinh thần cởi mở và chiêm niệm.

[30] GIOAN PHAOLÔ II, Bài giảng lễ Tuyên thánh (01.01.2000), 5: AAS 92 (2000), 852.

[31] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VÙNG TÂY PHI, Sứ điệp Bế mạc Hội nghị Toàn thể Lần thứ hai, 29.02.2016, 2.

[32] Người phụ nữ nghèo, Paris, II, 27.

[33] x. THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Thư Placuit Deo về Một số khía cạnh của sự Cứu độ Kitô giáo (22.02.2018), 4, trong L’Osservatore Romano, 2.3.2018, tr. 4-5: “Cả chủ nghĩa cá nhân theo tân phái pêlagiô lẫn sự xem thường thân xác của tân phái ngộ đạo đều làm méo mó sự tuyên xứng đức tin vào Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ phổ quát và duy nhất”. Tài liệu này cung cấp những nền tảng giáo thuyết để hiểu sự cứu độ Kitô giáo trong tham chiếu đến các khuynh hướng tân phái ngộ đạo và tân phái pêlagiô thời nay.

[34] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 94: AAS 105 (2013), 1060.

[35] Ibid.: AAS 105 (2013), 1059.

[36] Bài giảng Thánh Lễ tại Casa Santa Marta, 11.11.2016: L’Osservatore Romano, 12.11. 2016, p. 8.

[37] Như Thánh Bônaventura dạy, “chúng ta phải ngưng mọi hoạt động của trí óc và phải biến đổi cái đỉnh điểm của các tình cảm, hướng chúng tới Thiên Chúa mà thôi… vì tự nhiên không thể đạt được gì và nỗ lực cá nhân thì rất bé nhỏ, nên cần phải gán ít tầm quan trọng cho việc điều tra nghiên cứu và nhiều tầm quan trọng cho việc xoa dịu, cũng vậy, lời nói ít quan trọng hơn niềm vui bên trong, ăn nói và viết lách không quan trọng mấy, mà tất cả tầm quan trọng nằm ở ân ban của Chúa, là Thánh Thần, các thụ tạo không quan trọng mấy, mà tất cả tầm quan trọng nằm ở Đấng Sáng Tạo, là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”: BÔNAVENTURA, Itinerarium Mentis in Deum, VII, 4-5.

[38] x. Thư gửi Hiệu Trưởng Đại học Công giáo Argentina dịp kỷ niệm Bách chu niên Thành lập Phân khoa Thần học (3.3.2015): L’Osservatore Romano, 9-10.3.2015, tr. 6.

[39] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 40: AAS 105 (2013), 1037.

[40] Sứ điệp Truyền hình cho các tham dự viên của Hội nghị Ủy Ban Thần học Quốc tế tổ chức tại Đại học Công giáo Argentina (1-3.9.2015): AAS 107 (2015), 980.

[41] Vita Consecrata (25.3.1996), 38: AAS 88 (1996), 412.

[42] Thư gửi Hiệu Trưởng Đại học Công giáo Argentina dịp kỷ niệm Bách chu niên Thành lập Phân khoa Thần học (3.3.2015): L’Osservatore Romano, 9-10.3.2015, tr. 6.

[43] Thư gửi Anthony, 2: FF 251.

[44] De septem donis, 9, 15.

[45] Trong IV Sent. 37, 1, 3, ad 6.

[46] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 94: AAS 105 (2013), 1059.

[47] x. Bônaventura, De sex alis Seraphim, 3, 8: “Non omnes omnia possunt”. Cụm từ này phải được hiểu trong ánh sáng của Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1735.

[48] x.. TÔMA AQUINÔ, Summa Theologiae II-II, q. 109, a. 9, ad 1: “Nhưng như chúng ta đã nói, ở đây ân sủng không hoàn hảo mức nào đó, trong chừng mực nó không chữa lành hoàn toàn người ta”.

[49] x. De natura et gratia, 43, 50: PL 44, 271.

[50] Tự thú, X, 29, 40: PL 32, 796.

[51] x. Evangelii Gaudium (24.11.2013), 44: AAS 105 (2013), 1038.

[52] Trong việc hiểu đức tin Kitô giáo, ân sủng đi trước, đồng hành và đi theo tất cả các hành động của chúng ta (x. CÔNG ĐỒNG TRENTÔ, Khóa VI, Sắc lệnh về Công chính hóa, ch. 5: DH 1525).

[53] x. trong Ep. ad Romanos, 9, 11: PG 60, 470.

[54] Homilia de Humilitate: PG 31, 530.

[55] Canon 4: DH 374.

[56] Khóa VI, Sắc lệnh về Công chính hóa, ch. 8: DH 1532.

[57] No. 1998.

[58] Ibid., 2007.

[59] Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I-II, q. 114, a. 5.

[60] TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU, “Kinh Dâng Hiến cho Tình yêu Thương Xót” (Cầu nguyện, 6).

[61] Lucio Gera, Sobre el misterio del pobre, trong P. GRELOT-L. GERA-A. DUMAS, El Pobre, Buenos Aires, 1962, 103.

[62] Nói tóm, đây là giáo thuyết Công giáo về “công trạng” theo sau ơn công chính hóa: nó liên hệ tới sự cộng tác của người được công chính hóa để lớn lên trong đời sống ân sủng (x. Giáo lý của Giáo hội Công giáo, 2010). Nhưng sự cộng tác này không hề làm cho sự công chính hóa hay tình trạng thân hữu với Thiên Chúa trở thành đối tượng của công trạng con người.

[63] x. Evangelii Gaudium (24.11. 2013), 95: AAS 105 (2013), 1060.

[64] Summa Theologiae I-II, q. 107, art. 4.

[65] PHANXICÔ, Bài giảng lễ Năm Thánh cho những người bị loại trừ trong xã hội (13.11.2016): L’Osservatore Romano, 14-15.11.2016, tr. 8.

[66] x. Bài giảng Thánh Lễ tại Casa Santa Marta, 9.6.2014: L’Osservatore Romano, 10.6.2014, tr. 8.

[67] Thứ tự của các Mối Phúc thứ hai và thứ ba thì thay đổi theo những bản địch khác nhau.

[68] Linh thao, 23d.

[69] Thủ bản C, 12r.

[70] Từ thời các Giáo phụ, Giáo hội đã trân trọng ân ban nước mắt, như thấy trong lời cầu nguyện rất hay “Ad petendam compunctionem cordis”. Như sau: “Lạy Thiên Chúa toàn năng và đầy lòng thương xót, Chúa đã cho vọt ra từ tảng đá mạch nước sự sống làm thỏa cơn khát của dân Chúa. Xin ban cho chúng con những dòng lệ ăn năn chảy từ trái tim cứng cỏi của mình, để chúng con biết đau buồn về tội lỗi chúng con, và nhờ lòng thương xót của Chúa mà chúng con nhận được ơn tha thứ” (x. Missale Romanum, ed. typ. 1962, tr. [110]).

[71] Giáo lý của Giáo hội Công giáo, 1789; x. 1970.

[72] Ibid., 1787.

[73] Nói xấu và vu khống là những hành động khủng bố: một quả bom được tung ra, nó phát nổ và kẻ tấn công ung dung bỏ đi một cách mãn nguyện. Điều này hoàn toàn khác với sự cao thượng của những người trực tiếp nói thẳng với người khác, một cách điềm tĩnh và tự nhiên, xuất phát từ lòng quan tâm chân thành đến thiện ích của người ấy.

[74] Có những lúc có thể cần phải nói về những khó khăn của một người anh chị em nào đó. Trong những trường hợp như thế, có thể xảy ra là người ta đưa ra một suy diễn thay vì là một sự kiện khách quan. Các cảm xúc có thể làm lung lạc và thay chỗ cho những dữ kiện thực tế, và cuối cùng là được truyền lan với sự thêm thắt những yếu tố chủ quan. Như vậy, cả các dữ kiện thực tế lẫn sự thật về người kia đều không được tôn trọng.

[75] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 218: AAS 105 (2013), 1110.

[76] Ibid., 239: 1116.

[77] Ibid., 227: 1112.

[78] Centesimus Annus (1.5.1991), 41c: AAS 81 (1993), 844-845.

[79] Novo Millennio Ineunte (06.01.2001), 49: AAS 93 (2001), 302.

[80] Ibid.

[81] Misericordiae Vultus (11.4.2015), 12: AAS 107 (2015), 407.

[82] Chúng ta có thể nhớ lại phản ứng của người Samaria tốt lành khi gặp người bị bọn cướp tấn công và bỏ dở sống dở chết (x. Lc 10,30-37).

[83] ỦY BAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO CANADA, Thư ngỏ gửi các thành viên Quốc hội, Công ích hay Loại trừ: Một chọn lựa cho người Canada (01.01.2001), 9.

[84] Hội nghị Toàn thể Lần thứ năm của các Giám mục Mỹ La tinh và vùng Caribê, vọng lại giáo huấn thường xuyên của Giáo hội, đã tuyên bố rằng con người “luôn luôn thánh thiêng, từ trong bào thai, ở mọi giai đoạn hiện hữu, cho tới cái chết tự nhiên, và sau khi chết”, và rằng phải bảo vệ sự sống “bắt đầu từ trong bào thai, ở mọi giai đoạn, cho tới cái chết tự nhiên” (Tài liệu Aparecida, 29.6.2007, 388; 464).

[85] Qui luật, 53, 1: PL 66, 749.

[86] x. ibid., 53, 7: PL 66, 750.

[87] Ibid., 53, 15: PL 66, 751.

[88] Misericordiae Vultus (11.4.2015), 9: AAS 107 (2015), 405.

[89] Ibid., 10, 406.

[90] Amoris Laetitia (19.3.2016), 311: AAS 108 (2016), 439.

[91] Evangelii Gaudium (24 November 2013), 197: AAS 105 (2013), 1103.

[92] x. Summa Theologiae, II-II, q. 30, a. 4.

[93] Ibid., ad 1.

[94] Được trích dẫn (trong bản dịch tiếng Tây Ban Nha) trong: Cristo en los Pobres, Madrid, 1981, 37-38.

[95] Có một số hình thức gây áp lực, có vẻ tế nhị hay trân trọng và ngay cả có vẻ thiêng liêng nhưng lại gây tai hại lớn cho sự tự trọng của người khác.

[96] Precautions, 13.

[97] Ibid., 13.

[98] x. Nhật ký. Lòng thương xót của Chúa trong linh hồn tôi, Stockbridge, 2000, tr. 139 (300).

[99] TÔMA AQUINÔ, Summa Theologiae, I-II, q. 70, a. 3.

[100] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 6: AAS 105 (2013), 1221.

[101] Tôi khuyến khích dùng lời cầu nguyện được cho là của Thánh Thomas More: “Lạy Chúa, xin cho con một bộ tiêu hóa tốt, và cũng cho con có cái gì đó để tiêu hóa! Xin cho con một thân thể khoẻ mạnh, và khiếu hài hước lành mạnh cần thiết để giữ sức khoẻ ấy. Xin cho con một tâm hồn đơn sơ, biết trân trọng tất cả những gì tốt lành, và không dễ nao núng trước sự dữ, nhưng biết tìm cách trả mọi thứ về đúng chỗ của nó. Xin cho con một tâm hồn không biết chán, không cằn nhằn, không thở dài than vãn, không căng thẳng quá đáng do cái tôi cồng kềnh. Lạy Chúa, xin cho con khiếu hài hước tốt lành. Xin cho con ơn biết vui đùa, biết khám phá niềm vui trong cuộc sống, và biết chia sẻ niềm vui ấy cho tha nhân.”

[102] Amoris Laetitia (19.3.2016), 110: AAS 108 (2016), 354.

[103] Evangelii Nuntiandi (8.12.1975), 80: AAS 68 (1976), 73. Đáng ghi nhận rằng trong bản văn này Chân phước Phaolô VI nối kết chặt chẽ niềm vui với parrhesía. Trong khi lấy làm tiếc về tình trạng “thiếu niềm vui và hy vọng” xét như một cản trở cho việc loan báo Tin Mừng, ngài cổ võ “niềm vui loan báo Tin Mừng đầy năng lực an ủi”, được nối kết với “nhiệt tâm mà không ai và không gì có thể làm nguội lạnh”. Điều này khẳng định rằng thế giới không nhận Tin Mừng “từ những người buồn phiền và thất vọng”. Trong Năm Thánh 1975, Giáo hoàng Phaolô VI đã dành Tông huấn Gaudete in Domino để nói về niềm vui (9.5.1975): AAS 67 (1975), 289-322.

[104] Precautions, 15.

[105] GIOAN PHAOLÔ II, Vita Consecrata (25.3.1996), 42: AAS 88 (1996), 416.

[106] Tự thú, IX, 10, 23-25: PL 32, 773-775.

[107] Tôi đặc biệt nghĩ đến ba từ chủ chốt: “xin làm ơn”, “cảm ơn”, và “xin lỗi”. “Những lời thích hợp, được nói đúng lúc, sẽ bảo vệ và nuôi dưỡng tình yêu hằng ngày”: Amoris Laetitia (19.3.2016), 133: AAS 108 (2016), 363.

[108] TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU, Thủ bản C, 29 v-30r.

[109] Các mức độ trọn lành, 2.

[110] ID., Những lời khuyên cho một tu sĩ về cách đạt tới trọn lành, 9.

[111] Tự thuật, 8, 5.

[112] GIOAN PHAOLÔ II, Orientale Lumen (2.5.1995), 16: AAS 87 (1995), 762.

[113] Gặp gỡ các tham dự viên Đại hội Giáo hội Italia Lần thứ năm, Florence, (10.11.2015): AAS 107 (2015), 1284.

[114] x. BÊNAĐÔ CLAIRVAUX, Sermones in Canticum Canticorum, 61, 3-5: PL 183:1071-1073.

[115] Con đường của một khách hành hương, New York, 1965, tr. 17, 105-106.

[116] x. Linh thao, 230-237.

[117] Thư gửi Henry de Castries, 14.8.1901.

[118] HỘI NGHỊ TOÀN THỂ LẦN THỨ NĂM CỦA CÁC GIÁM MỤC MỸ LA TINH VÀ VÙNG CARIBÊ, Tài liệu Aparecida (29.6.2007), 259.

[119] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO ẤN ĐỘ, Tuyên bố chung kết Hội nghị Toàn thể Lần thứ 21, 18.02.2009, 3.2.

[120] x. Bài giảng Thánh Lễ tại Casa Santa Marta, 11.10.2013: L’Osservatore Romano, 12.10.2013, tr. 2.

[121] x. PHAOLÔ VI, Giáo lý, Tiếp kiến chung ngày15.11.1972: Insegnamenti X (1972), tr. 1168-1170: “Một trong những nhu cầu lớn nhất của chúng ta là chống lại sự dữ mà chúng ta gọi là ma quỉ… Sự dữ không đơn thuần là một sự khiếm khuyết, nó là một tác động hữu hiệu, một hữu thể tinh thần sống động, đã hư hỏng và làm cho người ta hư hỏng. Nó là một thực tại khủng khiếp, bí ẩn và ghê sợ. Người ta không còn ở trong khuôn khổ giáo huấn của Thánh Kinh và của Giáo hội nếu họ phủ nhận sự hiện hữu của nó, hay nếu họ xem nó như một nguyên lý độc lập, không có nguồn gốc nơi Thiên Chúa như mọi thụ tạo khác, hoặc giải thích nó như một thực tại giả, một sự nhân cách hóa có tính tưởng tượng và niệm tưởng các nguyên nhân bí ẩn của những điều không may của chúng ta”.

[122] JOSÉ GABRIEL DEL ROSARIO BROCHERO, “Plática de las banderas”, trong CONFERENCIA EPISCOPAL ARGENTINA, El Cura Brochero. Cartas y sermones, Buenos Aires, 1999, 71.

[123] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 85: AAS 105 (2013), 1056.

[124] Mộ của Thánh Inhaxiô Loyola mang dòng chữ đầy cảm kích này: Non coerceri a maximo, conteneri tamen a minimo divinum est (“Những gì thực sự thuộc về Thiên Chúa thì không bị giới hạn bởi cái lớn nhất, nhưng được chứa đựng trong những cái nhỏ nhất”).

[125] Collationes in Hexaemeron, 1, 30.

Lm. Lê Công Đức dịch

Nguồn: Website Xuân Bích Việt Nam