Tông Huấn Hãy Vui Mừng Hoan Hỉ (Gaudete Et Exsultate) – Từ Số 1 – 109


TÔNG HUẤN HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ (GAUDETE ET EXSULTATE)

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

VỀ LỜI MỜI GỌI NÊN THÁNH TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY

  1. “HÃY VUI MỪNG VÀ HOAN HỈ” (Mt 5,12), Chúa Giêsu nói như thế với những người bị bách hại và sỉ nhục vì Người. Chúa yêu cầu chúng ta đủ thứ, và Người đáp lại bằng việc trao ban cho chúng ta sự sống đích thực, tức hạnh phúc mà chúng ta đã được dựng nên để lãnh nhận. Chúa muốn chúng ta nên thánh chứ không hài lòng với một hiện hữu nhạt nhẽo và xoàng xĩnh. Tiếng gọi nên thánh vẫn có đó theo nhiều cách thế từ những trang đầu tiên của Thánh Kinh. Chúng ta thấy nó được diễn tả trong lời Chúa nói với Abraham: “Hãy bước đi trước mặt Ta, và hãy sống hoàn hảo” (St 17,1).
  2. Những trang sau đây không có ý làm một luận đề về sự thánh thiện, chuyên chở những định nghĩa và những đặc nét giúp cho việc nắm hiểu chủ đề quan trọng này, cũng không phải là một luận bàn về những phương thế khác nhau của việc thánh hóa. Mục tiêu khiêm tốn của tôi là nêu lại lời mời gọi nên thánh bằng một cách thực tiễn cho thời đại chúng ta, với tất cả những nguy hiểm, những thách đố và những cơ hội của nó. Vì Chúa đã chọn mỗi người chúng ta “để trở nên tinh tuyền thánh thiện trước nhan Người trong tình yêu” (Ep 1,4).

CHƯƠNG I

LỜI MỜI GỌI NÊN THÁNH

CÁC THÁNH KHÍCH LỆ VÀ ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚNG TA

  1. Thư gửi tín hữu Do thái trình bày nhiều chứng từ khích lệ chúng ta “kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta” (12,1). Thư này nhắc đến Abraham, Xa-ra, Mô-sê, Ghi-đê-ôn và nhiều người khác (x. 11,1-12,3). Trên tất cả, Thư này mời gọi chúng ta nhận ra rằng “một đám mây chứng nhân” (12,1) thúc đẩy chúng ta tiến tới không ngừng hướng về đích điểm. Những chứng nhân này có thể bao gồm mẹ, bà ngoại hay những người thân yêu khác của chúng ta (x. 2Tm 1,5). Đời sống của họ có thể không luôn luôn hoàn hảo, nhưng ngay giữa những lỗi lầm và thiếu sót họ vẫn tiến tới và đã làm Chúa vui lòng.
  2. Các thánh đang ở với Thiên Chúa vẫn giữ mối ràng buộc yêu thương và hiệp thông với chúng ta. Sách Khải Huyền chứng thực điều này khi nói về sự chuyển cầu của các chứng nhân tuẫn đạo: “Tôi thấy dưới bàn thờ linh hồn của những người đã bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng; họ lớn tiếng kêu: ‘Lạy Chúa chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn không xét xử?’” (6,9-10). Mỗi chúng ta có thể nói: “Được vây quanh và được dẫn dắt bởi các bạn của Thiên Chúa… tôi không phải một mình mang vác điều mà tôi thật sự không thể một mình vác nổi. Tất cả các thánh của Thiên Chúa vẫn có đó để bảo vệ tôi, nâng đỡ tôi và bồng ẵm tôi”. [1]
  3. Các tiến trình tuyên chân phúc và tuyên thánh nhìn nhận những dấu hiệu của nhân đức anh hùng, sự hy sinh mạng sống mình trong cái chết tuẫn đạo, và một số trường hợp trong đó một đời sống được không ngừng dâng hiến cho tha nhân, cho đến tận cái chết. Điều này cho thấy một mẫu mực của việc bắt chước Đức Kitô, đáng được các tín hữu cảm phục. [2] Chẳng hạn, chúng ta có thể nghĩ đến Chân phúc Maria Gabriella Sagheddu, người đã dâng hiến cuộc đời mình cho sự hợp nhất các Kitô hữu.

CÁC THÁNH Ở KẾ BÊN

  1. Chúng ta cũng không cần duy chỉ nghĩ đến các vị đã được tuyên chân phúc hay tuyên thánh. Chúa Thánh Thần trao ban sự thánh thiện dồi dào nơi dân thánh trung tín của Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa muốn thánh hóa và cứu độ con người không như những cá nhân riêng rẽ không chút liên đới với nhau, nhưng Ngài muốn làm cho họ thành một dân tộc để họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong thánh thiện”. [3] Trong lịch sử cứu độ, Chúa đã cứu một dân tộc. Chúng ta không bao giờ là chính mình cách hoàn toàn trừ phi chúng ta thuộc về một dân. Vì thế không ai được cứu độ một mình, như một cá thể tách rời. Đúng hơn, Thiên Chúa kéo chúng ta đến với Ngài, trong chính mạng lưới tương quan liên vị phức hợp tồn tại trong một cộng đoàn nhân loại. Thiên Chúa muốn đi vào đời sống và lịch sử của một dân tộc.
  2. Tôi thích chiêm ngắm nét thánh thiện nơi sự kiên nhẫn của dân Thiên Chúa: nơi những người cha người mẹ nuôi con với tình yêu bao la, nơi những người nam nữ làm việc vất vả để lo cho gia đình, nơi những tu sĩ già yếu không bao giờ đánh mất nụ cười. Trong sự kiên trung của họ tôi nhìn thấy tính thánh thiện của Giáo hội chiến đấu. Rất thường, đó là một sự thánh thiện được gặp thấy nơi những con người ngay bên chúng ta, những người sống giữa chúng ta và phản ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta có thể gọi họ là “tầng lớp bậc trung của sự thánh thiện”. [4]
  3. Ta hãy để cho mình được thúc bách bởi các dấu hiệu của sự thánh thiện mà Chúa cho ta thấy qua những thành viên khiêm hạ nhất của đoàn dân “tham dự vào phận vụ ngôn sứ của Đức Kitô, bằng cách thể hiện khắp nơi chứng tá sống động cho Người, cách đặc biệt bằng đời sống đức tin và đức ái”. [5] Chúng ta cần nhớ sự thật mà Thánh Têrêsa Benedicta Thánh Giá đã nêu ra, đó là lịch sử thật sự được làm ra bởi nhiều người trong họ. Vị thánh nữ viết: “Những gương mặt ngôn sứ và thánh thiện vĩ đại nhất trổi lên khỏi đêm tối thâm u. Nhưng phần lớn, dòng chảy của đời sống thần bí vẫn không được nhìn thấy. Chắc chắn rằng những bước ngoặt có tính quyết định nhất trong lịch sử thế giới thì thiết yếu được phối hợp ấn định bởi các linh hồn mà không một sử sách nào đề cập về họ. Và chỉ trong ngày mà tất cả những gì giấu ẩn sẽ hiện lộ ra thì chúng ta mới nhận ra những linh hồn mà mình mắc nợ về những bước ngoặt quyết định trong đời sống của mình”. [6]
  4. Thánh thiện là vẻ mặt hấp dẫn nhất của Giáo hội. Nhưng ngay cả bên ngoài Giáo hội Công giáo và trong những bối cảnh rất khác, Chúa Thánh Thần vẫn khơi lên “những dấu hiệu sự hiện diện của Ngài để giúp đỡ các môn đệ của Đức Kitô”. [7] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắc chúng ta rằng “việc làm chứng cho Đức Kitô đến mức đổ máu ra đã trở thành một gia sản chung của người Công giáo, Chính Thống, Anh giáo và Tin Lành”. [8] Trong buổi lễ đại kết đầy cảm động được tổ chức tại Colosseum vào Năm Thánh 2000, ngài đã tuyên bố rằng các vị tuẫn đạo là “một di sản có tiếng nói hùng hồn hơn mọi nguyên nhân chia rẽ”. [9]

CHÚA KÊU GỌI

  1. Tất cả điều nói trên đều quan trọng. Nhưng với Tông huấn này tôi muốn chủ yếu nhấn mạnh tiếng gọi nên thánh mà Chúa ngỏ với mỗi chúng ta, tiếng gọi mà Ngài cũng nói cách riêng tư với bạn: “Hãy nên thánh, vì Ta là thánh” (Lv 11,44; x. 1Pr 1,16). Công đồng Vatican II tuyên bố rõ: “Được trao ban nhiều phương tiện cứu độ dồi dào và cao quí như thế, tất cả các tín hữu, dù trong hoàn cảnh hay bậc sống nào, cũng đều được Chúa kêu gọi, để mỗi người mỗi cách, vươn tới sự thánh thiện trọn hảo như chính Chúa Cha là Đấng trọn lành”. [10]
  2. Công đồng nói “mỗi người mỗi cách”. Chúng ta không nên nản chí trước những mẫu gương thánh thiện dường như mình không thể đạt tới được. Có một số chứng tá có thể thực sự hữu ích và truyền cảm hứng, nhưng không phải để chúng ta sao chép, vì điều đó có thể đưa ta đi lạc khỏi nẻo đường riêng mà Chúa có ý dành cho ta. Điều quan trọng là mỗi tín hữu phân định nẻo đường riêng của mình, để thể hiện chính mình cách tốt nhất, tức những ân sủng riêng tư nhất mà Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn họ (x. 1Cr 12,7), đúng hơn là cố gắng cách vô vọng để bắt chước một cái gì đó chẳng dành cho mình. Tất cả chúng ta được gọi trở thành những chứng nhân, nhưng có nhiều cách thực tế để làm chứng. [11] Thật vậy, khi Thánh Gioan Thánh Giá, nhà thần bí vĩ đại, viết Khúc Linh Ca, ngài đã muốn tránh việc đặt những qui tắc rập khuôn cho mọi người. Ngài giải thích rằng những khúc thơ của ngài được viết ra để người ta có thể vận dụng “mỗi người mỗi cách”. [12] Vì sự sống của Thiên Chúa được chuyển thông “cho người ta theo cách này hoặc cách khác”. [13]
  3. Trong những hình thức đa dạng ấy, tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng “thiên khiếu phụ nữ” được nhìn thấy nơi những phong cách thánh thiện đầy nữ tính, vốn là một phương tiện thiết yếu để phản ảnh sự thánh thiện của Thiên Chúa trong thế giới này. Thật vậy, vào những thời mà phụ nữ dễ bị thờ ơ và coi thường nhất, Chúa Thánh Thần đã làm nổi lên những vị thánh mà sức lôi cuốn của các ngài đã đem lại những cuộc canh tân thiêng liêng quan trọng và mạnh mẽ trong Giáo hội. Chúng ta có thể nhắc đến Thánh Hildegard ở Bingen, Thánh Bridget, Thánh Catarina Siena, Thánh Têrêsa Avila và Thánh Têrêsa Lisieux. Nhưng tôi cũng nghĩ đến tất cả những phụ nữ vô danh hay bị quên lãng là những người mà – mỗi người một cách – đã chống đỡ và làm biến đổi các gia đình và các cộng đồng nhờ sức mạnh chứng tá của họ.
  4. Điều ấy nên thôi thúc và khích lệ chúng ta dấn thân và đảm nhận cái kế hoạch độc đáo mà Thiên Chúa muốn cho mỗi chúng ta từ đời đời: “Trước khi tạo nên ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi người chào đời, Ta đã thánh hiến ngươi” (Gr 1,5).

CẢ BẠN NỮA CŨNG THẾ

  1. Để nên thánh, không cần phải trở thành giám mục, linh mục hay tu sĩ. Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành cho những ai có thể rút khỏi các công việc hằng ngày để dành nhiều thời gian cho việc cầu nguyện. Điều đó không đúng. Tất cả chúng ta được gọi nên thánh bằng việc sống đời sống mình với yêu thương và bằng việc làm chứng trong tất cả những gì mình làm, bất cứ nơi nào mình hiện diện. Bạn được gọi sống đời thánh hiến? Hãy nên thánh bằng việc vui tươi sống trọn lời cam kết của bạn. Bạn kết hôn? Hãy nên thánh bằng việc yêu thương và chăm sóc vợ hay chồng của bạn, như Đức Kitô yêu thương và chăm sóc Hội Thánh. Bạn đang làm việc kiếm sống? Hãy nên thánh bằng cách làm việc với hết khả năng và sự liêm chính để phục vụ anh chị em mình. Bạn là cha mẹ hay ông bà trong nhà? Hãy nên thánh bằng việc nhẫn nại dạy bảo con cháu mình biết đi theo Chúa Giêsu. Bạn đang ở vị trí nắm giữ quyền bính? Hãy nên thánh bằng cách làm việc phục vụ cho công ích và nói không với việc trục lợi riêng tư. [14]
  2. Hãy cho phép ân sủng Phép Rửa của bạn sinh hoa kết quả nơi một nẻo đường thánh thiện. Hãy cho phép mọi sự mở ra với Thiên Chúa; hãy hướng về Ngài trong mọi hoàn cảnh. Đừng sờn lòng nản chí, vì quyền năng của Chúa Thánh Thần sẽ giúp bạn, và sự thánh thiện nói cho cùng là hoa trái của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời bạn (x. Gl 5,22-23). Khi bạn cảm thấy bị cám dỗ ì lại trong sự yếu đuối của mình, hãy hướng mắt về Đức Kitô chịu đóng đinh và nói: “Chúa ơi, con là một tội nhân khốn khổ, nhưng Chúa có thể làm phép lạ cho con nên khá hơn một chút”. Trong Giáo hội, vốn thánh thiện nhưng lại được hình thành bởi các tội nhân, bạn sẽ tìm thấy mọi sự bạn cần để lớn lên trên con đường thánh thiện. Chúa đã ban cho Giáo hội những quà tặng như Thánh Kinh, các bí tích, những nơi thánh, những cộng đoàn sống động, chứng tá của các thánh và một vẻ đẹp đa dạng phát xuất từ tình yêu của Thiên Chúa, “như một cô dâu điểm trang lộng lẫy” (Is 61,10).
  3. Sự thánh thiện mà Chúa mời gọi bạn sẽ lớn lên xuyên qua các cử chỉ nhỏ nhoi. Day là một ví dụ: Một phụ nữ đi mua sắm, chị gặp một người hàng xóm và họ trò chuyện, một cuộc ngồi lê đôi mách bắt đầu. Nhưng chị tự nhủ trong lòng: “Không, tôi sẽ không nói xấu bất cứ ai”. Đó là một bước tiến lên trên con đường thánh thiện. Sau đó, về nhà, một đứa con của chị muốn chia sẻ với mẹ về những điều nó hy vọng và ước mơ, và mặc dù mệt mỏi, chị vẫn ngồi xuống lắng nghe con mình một cách ân cần và kiên nhẫn. Đó là một hy sinh nữa cho thấy sự thánh thiện. Rồi sau đó gặp chuyện âu lo, chị nhớ đến tình thương của Đức Trinh Nữ Maria nên chị lấy xâu chuỗi và lần hạt Mân Côi trong đức tin. Đó lại là một nẻo đường nữa của sự thánh thiện. Rồi, chị đi ra phố, gặp một người nghèo, chị dừng lại nói một lời tử tế với người ấy. Lại một bước thánh thiện nữa.
  4. Có những lúc cuộc sống gặp phải những thách đố lớn lao. Xuyên qua chúng, Chúa lại mời gọi chúng ta đi vào một cuộc hoán cải vốn có sức làm cho ân sủng của Ngài trở nên rõ ràng hơn trong đời sống mình, “để chúng ta có thể tham dự vào sự thánh thiện của Ngài” (Dt 12,10). Có những lúc khác, chúng ta chỉ cần tìm ra cách thế hoàn hảo hơn để làm những gì mà mình vốn làm: “Có những cảm hứng chỉ thúc đẩy ta làm cho hoàn hảo những việc bình thường trong đời sống bằng một cách thế phi thường”. [15] Khi Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận bị cầm tù, ngài từ chối phung phí thời gian trong việc chờ đợi ngày được phóng thích. Thay vào đó, ngài chọn “sống giây phút hiện tại, lấp đầy nó với tình yêu”. Ngài quyết định: “Tôi sẽ tận dụng các cơ hội có được mỗi ngày; tôi sẽ chu toàn các việc thường ngày của tôi một cách phi thường”. [16]
  5. Bằng cách này, được ân sủng của Thiên Chúa hướng dẫn, với nhiều cử chỉ nhỏ bé chúng ta hình thành sự thánh thiện mà Thiên Chúa đã muốn cho mình, không phải như những người nam nữ hoàn toàn tự lực mà đúng hơn “như những người quản lý tốt lành kho tàng ân sủng của Thiên Chúa” (1Pr 4,10). Các giám mục New Zealand dạy chúng ta cách đúng đắn rằng chúng ta có khả năng yêu thương là nhờ ở tình yêu vô điều kiện của Chúa, bởi vì Chúa Phục sinh chia sẻ sự sống mạnh mẽ của Người cho sự sống mỏng dòn của chúng ta: “Tình yêu của Chúa không có giới hạn và một khi đã trao ban thì không bao giờ rút lại. Tình yêu ấy vô điều kiện và luôn trung thành. Yêu như thế chẳng dễ chút nào, vì chúng ta thường quá yếu đuối. Nhưng ngay trong việc cố gắng yêu thương như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta cũng cho thấy rằng Đức Kitô đang thông ban sự sống Phục sinh của Người cho ta. Nhờ đó, đời sống chúng ta biểu thị sự hoạt động của quyền năng Chúa – ngay giữa sự yếu đuối của con người”. [17]

SỨ MẠNG CỦA BẠN TRONG ĐỨC KITÔ

  1. Một Kitô hữu không thể nghĩ về sứ mạng của mình trong cuộc đời này mà không thấy rằng đó là một nẻo đường của sự thánh thiện, vì “thánh ý của Thiên Chúa, đó là sự thánh hóa của anh em” (1Tx 4,3). Mỗi vị thánh là một sứ mạng, được hoạch định bởi Chúa Cha để phản ảnh và thể hiện cụ thể một khía cạnh nào đó của Tin Mừng tại một thời khắc nào đó trong lịch sử.
  2. Sứ mạng ấy nhận ý nghĩa trọn vẹn của nó trong Đức Kitô, và chỉ có thể được hiểu qua Người. Ở cốt lõi của nó, và trong sự kết hợp với Đức Kitô, sự thánh thiện là kinh nghiệm những mầu nhiệm của đời sống Người. Nó hệ tại việc kết hợp chính mình với cái chết và sự phục sinh của Chúa trong một cách thế rất độc đáo riêng tư, không ngừng chết đi và sống lại với Người. Nhưng nó cũng có thể tái lập trong đời sống chúng ta những khía cạnh khác nhau trong cuộc đời dương thế của Đức Giêsu: đời sống ẩn dật của Người, đời sống của Người trong cộng đồng, sự gần gũi của Người với những người tội lỗi, sự nghèo khó của Người, và những cách khác nữa qua đó Người diễn tả tình yêu quên mình. Việc chiêm ngắm các mầu nhiệm này, như Thánh Inhaxiô Loyola cho thấy, sẽ dẫn chúng ta đến chỗ hội nhập các mầu nhiệm ấy vào trong các chọn lựa và các thái độ của chúng ta. [18] Vì “mọi sự nơi cuộc đời Đức Giêsu đều là một dấu hiệu diễn tả mầu nhiệm của Người”, [19] nên “toàn thể đời sống Đức Kitô là một mặc khải về Chúa Cha”, [20] toàn thể đời sống Đức Kitô là một mầu nhiệm cứu chuộc”, [21] “toàn thể đời sống Đức Kitô là một mầu nhiệm thu họp”. [22] “Đức Kitô giúp ta sống trong Người tất cả những gì chính Người đã sống, và Người sống những điều ấy trong ta”. [23]
  3. Kế hoạch của Chúa Cha là Đức Kitô, và là chính chúng ta trong Đức Kitô. Rốt cục, chính Đức Kitô là Đấng yêu thương nơi chúng ta, vì “sự thánh thiện không phải là gì khác ngoài đức ái được sống cách viên mãn”. [24] Như vậy, “mức độ thánh thiện của chúng ta được xác định bởi mức độ mà Đức Kitô chiếm lĩnh được nơi ta, nghĩa là trong chừng mực mà nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần chúng ta rập khuôn toàn thể đời sống mình theo Đức Kitô”. [25] Mỗi vị thánh là một thông điệp mà Chúa Thánh Thần rút từ kho tàng của Đức Giêsu Kitô và trao cho dân của Người.
  4. Để nhận ra lời mà Chúa muốn nói với mình xuyên qua một vị thánh của Người, chúng ta không cần săm soi vào tận các chi tiết, vì như vậy chúng ta cũng có thể gặp những lỗi lầm và thất bại. Không phải bất cứ gì một vị thánh nói thì đều hoàn toàn phản ảnh Tin Mừng; không phải mọi việc ngài làm thì đều chân thực hay hoàn hảo. Điều chúng ta cần chiêm ngắm là toàn thể đời sống của các ngài, toàn thể hành trình lớn lên trong sự thánh thiện của các ngài, tức sự phản ảnh Đức Giêsu Kitô hiện lộ lên khi chúng ta nắm hiểu trọn ý nghĩa của các ngài xét như một con người. [26]
  5. Đây là một lời hiệu triệu mạnh mẽ dành cho tất cả chúng ta. Cả bạn nữa, bạn cũng cần nhìn thấy toàn thể đời sống mình như một sứ mạng. Hãy gắng thi hành sứ mạng đó bằng cách lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện và nhận ra những dấu hiệu mà Ngài trao cho bạn. Hãy luôn hỏi Chúa Thánh Thần để biết Chúa Giêsu mong muốn gì nơi bạn vào mọi lúc trong cuộc đời và trong mọi quyết định mà bạn phải đưa ra, để phân định vai trò của nó trong sứ mạng mà bạn đã lãnh nhận. Hãy cho phép Chúa Thánh Thần rèn đúc nơi bạn một mầu nhiệm riêng có thể phản chiếu Đức Giêsu Kitô trong thế giới hôm nay.
  6. Ước mong bạn tiến tới nhận ra lời đó là gì, tức thông điệp của Đức Giêsu mà Thiên Chúa muốn ngỏ với thế giới qua đời sống của bạn. Bạn hãy cho phép mình được biến đổi. Hãy để cho mình được đổi mới nhờ Chúa Thánh Thần, nhờ đó điều tốt đẹp này sẽ diễn ra, và bạn không thất bại trong sứ mạng cao quí của mình. Chúa sẽ mang sứ mạng ấy đến hoàn thành, bất chấp những lầm lạc của bạn, miễn là bạn không bỏ nẻo đường yêu thương, nhưng luôn mở lòng ra với ân sủng siêu nhiên của Chúa, là ân sủng có sức thanh tẩy và chiếu sáng.

HOẠT ĐỘNG CÓ NĂNG LỰC THÁNH HÓA

  1. Bạn không thể hiểu Đức Kitô nếu không đặt trong bối cảnh vương quốc mà Người đem đến, cũng vậy, sứ mạng riêng của bạn không thể tách rời khỏi việc xây dựng vương quốc ấy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt 6,33). Sự đồng hóa của bạn với Đức Kitô và với ý muốn của Người liên can tới một cam kết dấn thân với Người xây dựng nước của tình yêu, công lý và hòa bình phổ quát ấy. Chính Đức Kitô muốn kinh nghiệm điều này với bạn, trong mọi cố gắng và hy sinh gắn liền với nó, và cả trong mọi niềm vui và sự phong phú mà nó đem lại. Bạn không thể lớn lên trong sự thánh thiện mà không dấn thân, thân xác và linh hồn, để cống hiến hết mình cho công cuộc này.
  2. Thật là không lành mạnh việc yêu sự thinh lặng mà tránh né tương tác với người khác, việc muốn an tĩnh theo nghĩa không hoạt động, việc tìm kiếm cầu nguyện trong khi không quan tâm đến phục vụ. Mọi sự đều có thể được chấp nhận và hội nhập vào đời sống của bạn trong thế giới này, và trở thành một phần của nẻo đường nên thánh. Chúng ta được mời gọi làm những người chiêm niệm ngay giữa hoạt động, và nên thánh bằng việc thi hành sứ mạng riêng mình một cách quảng đại và có trách nhiệm.
  3. Chẳng lẽ Chúa Thánh Thần có thể thúc giục chúng ta thi hành một sứ mạng, và rồi lại yêu cầu ta bỏ sứ mạng đó, hoặc đừng tận tâm tận lực cho nó, để giữ sự bình an bên trong của mình? Thế nhưng có những lúc chúng ta bị cám dỗ xem việc dấn thân cho mục vụ hay cho thế giới là điều thứ yếu, như thể đó là “những chia trí” trên con đường thánh thiện và bình an nội tâm. Chúng ta có thể quên rằng “đời sống không có một sứ mạng, nhưng là một sứ mạng”. [27]
  4. Thật quá rõ, bất cứ gì được làm do bởi bức xúc, kiêu ngạo hay bởi nhu cầu gây ấn tượng cho người khác thì sẽ không dẫn tới sự thánh thiện. Chúng ta được thách đố diễn tả sự dấn thân của mình theo cách thế sao cho mọi sự ta làm đều có ý nghĩa Tin Mừng và đều làm ta nên giống Đức Giêsu Kitô hơn. Chẳng hạn, chúng ta thường nói về linh đạo của giảng viên giáo lý, linh đạo của linh mục giáo phận, linh đạo của việc làm. Cũng vì lý do ấy, trong Tông huấn Evangelii Gaudium tôi đã kết luận bằng cách nói về một linh đạo sứ mạng, trong Laudato Sì tôi nói về một linh đạo môi trường, và trong Amoris Laetitia tôi nói về một linh đạo đời sống gia đình.
  5. Nói vậy không có nghĩa là phớt lơ nhu cầu cần có những khoảnh khắc an tĩnh, cô tịch và thinh lặng trước mặt Chúa. Hoàn toàn không phải thế. Sự có mặt của những món đồ công nghệ luôn đổi mới, sự hào hứng của du lịch, và những dãy hàng tiêu dùng bất tận nhiều khi không còn chừa chỗ cho người ta nghe tiếng Chúa. Chúng ta bị tràn ngập bởi những lời nói, bởi những thú vui hời hợt và bởi một sự ồn ào ngày càng tăng, chúng ta bị lấp đầy không phải bởi niềm vui mà bởi sự nhăn nhó bất mãn của những người mà đời sống của họ đã đánh mất ý nghĩa. Làm sao chúng ta có thể không nhận ra nhu cầu phải dừng cuộc bon chen ấy và tìm không gian riêng tư cần thiết để có một cuộc tâm sự chân thành với Thiên Chúa? Việc tìm ra không gian ấy có thể gay go, nhưng luôn luôn đem lại trái ngọt. Sớm hay muộn, chúng ta phải đối diện với con người thật của mình và cho phép Chúa bước vào. Điều này không thể xảy ra trừ phi “chúng ta thấy mình đang lao vào vực thẳm của một cám dỗ khủng khiếp, hay cảm thấy choáng váng vì đang đứng trên vách chênh vênh của tuyệt vọng, hoặc ta thấy mình hoàn toàn đơn độc và bị bỏ rơi”. [28] Trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta tìm thấy động lực sâu xa nhất để sống tận lực sự dấn thân cho công việc của mình.
  6. Cũng những chia trí ấy, vốn tràn ngập trong thế giới hôm nay, sẽ làm cho chúng ta có xu hướng tuyệt đối hóa thời gian rảnh của mình, trong đó chúng ta lao mình vào những thiết bị cung cấp cho ta sự giải trí hay những khoái cảm phù du. [29] Từ đó, chúng ta trở nên bực bội với sứ mạng của mình, sự dấn thân của ta hóa nên ì ạch, tinh thần quảng đại và sẵn sàng phục vụ của ta bắt đầu suy giảm. Điều này làm biến chất kinh nghiệm thiêng liêng của chúng ta. Làm sao có thể có một lòng sốt sắng thiêng liêng lành mạnh khi bên cạnh nó là sự uể oải lười biếng đối với việc loan báo Tin Mừng và việc phục vụ tha nhân?
  7. Chúng ta cần một tinh thần thánh thiện có thể lấp đầy cả sự cô tịch lẫn công việc phục vụ của mình, lấp đầy cả đời sống riêng lẫn những nỗ lực loan báo Tin Mừng của chúng ta, để cho mọi khoảnh khắc đều có thể là một diễn tả tình yêu tự hiến trong ánh nhìn của Chúa. Bằng cách này, mọi giây phút của đời ta có thể là một bước tiến lên trên nẻo đường thánh thiện.

SỐNG ĐỘNG HƠN, NHÂN BẢN HƠN

  1. Bạn đừng sợ nên thánh. Sự thánh thiện không tước đi năng lực, sức sống hay niềm vui của bạn. Trái lại, bạn sẽ trở thành điều mà Chúa Cha nhắm đến khi tạo nên bạn, và bạn sẽ trung thành với bản ngã sâu xa nhất của mình. Việc ta phụ thuộc vào Thiên Chúa sẽ giải phóng ta khỏi mọi hình thức nô lệ và giúp ta nhận ra phẩm giá cao cả của mình. Chúng ta thấy điều này nơi Thánh Josephine Bakhita: “Bị bắt cóc và bị bán làm nô lệ ở tuổi lên bảy rất mong manh, ngài đã chịu nhiều thống khổ trong tay của các người chủ tàn nhẫn. Nhưng ngài dần hiểu ra sự thật thâm sâu rằng Thiên Chúa, chứ không phải con người, mới là Chủ đích thực của mọi người, mọi sự sống con người. Kinh nghiệm này đã trở thành một nguồn khôn ngoan lớn lao cho cô con gái khiêm nhường này của Phi Châu”. [30]
  2. Trong mức độ mà mỗi Kitô hữu lớn lên trong sự thánh thiện, người ấy sẽ sinh hoa trái nhiều hơn cho thế giới chúng ta. Các giám mục Tây Phi đã ghi nhận rằng “chúng ta đang được kêu gọi trong tinh thần Tân Phúc âm hóa để được Phúc âm hóa và để Phúc âm hóa xuyên qua việc làm cho vững mạnh tất cả anh chị em, là những người đã lãnh Phép Rửa, để anh chị em chu toàn vai trò là muối đất và là ánh sáng cho trần gian ở bất cứ nơi nào anh chị em hiện diện”. [31]
  3. Bạn đừng sợ việc hướng nhìn cao hơn, cho phép Thiên Chúa yêu bạn và giải phóng bạn. Đừng sợ để mình được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Sự thánh thiện không làm cho bạn ít là người hơn, vì đó là một gặp gỡ giữa sự yếu đuối của bạn và sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa. Vì như cách nói của Léon Bloy, rốt cục, “bi kịch thảm hại duy nhất trong đời sống, đó là không nên thánh”. [32]

CHƯƠNG II

HAI KẺ THÙ TINH VI CỦA SỰ THÁNH THIỆN

  1. Ở đây tôi muốn đề cập hai dạng thánh thiện lầm lẫn và có thể dẫn ta đi lạc: đó là ngộ đạo thuyết (gnosticism) và thuyết pêlagiô (pelagianism). Đây là hai lạc thuyết từ những thuở ban đầu Kitô giáo, nhưng chúng vẫn tiếp tục hoành hành nơi chúng ta. Cả trong thời chúng ta, nhiều Kitô hữu – có lẽ một cách không ý thức – có thể bị lôi cuốn bởi những ý tưởng lừa dối này, vốn phản ảnh một nội tại thuyết qui nhân trong cái lốt như là chân lý Công giáo. [33] Chúng ta hãy xem xét hai dạng bảo đảm mang tính giáo thuyết hay qui phạm này, vốn làm nổi lên “một tầng lớp ưu tú độc đoán và tự yêu, trong đó thay vì loan báo Tin Mừng, thì người ta phân tích và xếp loại những người khác, và thay vì mở rộng cửa cho ân sủng, người ta lại vắt cạn năng lực mình trong việc thẩm tra và xác minh. Trong cả hai trường hợp, người ta đều không thực sự quan tâm đến Đức Giêsu Kitô và tha nhân”. [34]

NGỘ ĐẠO THUYẾT HIỆN ĐẠI

  1. Ngộ đạo thuyết giả định “một đức tin hoàn toàn chủ quan với mối quan tâm duy nhất là một kinh nghiệm nào đó hay một tập hợp các ý tưởng và các thông tin nhằm mục đích an ủi và soi sáng, nhưng rốt cục nó cầm tù người ta trong chính các tư tưởng và các cảm nghĩ của họ”. [35]

Một trí năng mà không có Thiên Chúa và không có xác thịt

  1. Tạ ơn Chúa, xuyên qua lịch sử Giáo hội, bao giờ cũng rõ ràng là sự hoàn thiện của một người thì không được đo lường bởi thông tin hay kiến thức mà họ sở đắc, nhưng bởi chiều sâu đức ái của họ. Những “người ngộ đạo” không hiểu điều này, vì họ phán xét người khác dựa trên khả năng nhận hiểu sự phức tạp của một số giáo thuyết. Họ nghĩ về trí năng như tách rời khỏi xác thịt, và do đó họ thiếu khả năng đụng chạm đến xác thịt đau khổ của Đức Kitô nơi tha nhân, điều xảy ra là họ khép kín mình lại trong một từ điển bách khoa về những khái niệm trừu tượng. Cuối cùng, do việc tước cái cụ thể khỏi mầu nhiệm, họ nghiêng chiều về “một Thiên Chúa mà không có Đức Kitô, một Đức Kitô mà không có Giáo hội, và một Giáo hội mà không có dân chúng của mình”. [36]
  2. Chắc chắn đây là một loại tự phụ nông cạn: có nhiều chuyển động trên bề mặt, nhưng trong thâm tâm thì không được đánh động sâu xa và cũng chẳng cảm kích gì. Thế nhưng ngộ đạo thuyết vẫn có một sức hấp dẫn đầy dối gạt đối với một số người, vì cách tiếp cận của ngộ đạo thuyết thì chặt chẽ và được cho là tinh thuần, và có vẻ như nó có thể thủ đắc được một sự hòa điệu hay một trật tự nào đó bao trùm mọi sự.
  3. Ở đây chúng ta phải cẩn thận. Tôi không đang nói đến một chủ nghĩa duy lý vốn đối nghịch với đức tin Kitô giáo. Nó có thể có mặt trong Giáo hội, cả nơi giáo dân ở các giáo xứ lẫn nơi các thầy dạy triết học hay thần học tại các trung tâm đào tạo. Những người theo ngộ đạo thuyết nghĩ rằng những giải thích của họ có thể làm cho tất cả đức tin và Tin Mừng có thể được nhận hiểu hoàn toàn. Họ khư khư bám chặt vào các lý thuyết của họ và ép người khác phải chấp nhận cách nghĩ của họ. Việc sử dụng lý trí cách khiêm tốn và lành mạnh để suy tư về giáo huấn thần học và luân lý của Tin Mừng, đó là một chuyện. Nhưng sẽ là một chuyện khác, nếu giảm trừ giáo huấn của Chúa Giêsu đến chỉ còn là một luận lý khắc nghiệt và lạnh lùng nhằm tìm cách thống trị mọi sự. [37]

Một giáo thuyết mà không có mầu nhiệm

  1. Ngộ đạo thuyết là một trong những ý thức hệ tai hại nhất, bởi vì trong khi đề cao quá đáng sự hiểu biết hay một kinh nghiệm chuyên biệt nào đó, thì nó coi cái nhìn của nó về thực tại là toàn hảo. Vì thế, có lẽ thậm chí chính nó không ngờ, ý thức hệ này dựa trên chính nó và trở thành càng cận thị hơn. Nó có thể trở thành ảo tưởng hơn nữa khi nó mang cái mặt nạ của một linh đạo thuần thiêng. Vì ngộ đạo thuyết “tự bản chất nó tìm cách làm chủ mầu nhiệm”, [38] dù đó là mầu nhiệm Thiên Chúa và ân sủng Ngài hay đó là mầu nhiệm đời sống của người khác.
  2. Khi một ai đó có câu trả lời cho mọi vấn đề, thì đó là dấu hiệu rằng họ không đang ở trên con đường đúng đắn. Có thể họ là những tiên tri giả, những người sử dụng tôn giáo cho các mục đích của riêng mình, để quảng bá những lý thuyết về tri thức hay về tâm lý của mình. Thiên Chúa siêu vượt vô cùng trên chúng ta; Ngài đầy những bất ngờ. Chúng ta không phải là người xác định khi nào và bằng cách nào mình sẽ gặp gỡ Ngài; thời điểm và nơi chốn chính xác của cuộc gặp gỡ ấy không thuộc quyền định đoạt của chúng ta. Hễ ai muốn rằng mọi sự đều rõ ràng và chắc chắn, thì người ấy đang cho rằng mình kiểm soát sự siêu việt của Thiên Chúa.
  3. Chúng ta cũng không thể cho rằng mình biết Thiên Chúa không ở đâu, bởi vì Thiên Chúa hiện diện một cách mầu nhiệm trong đời sống của mọi con người, theo cách thế mà chính Ngài chọn lựa, và chúng ta không thể loại bỏ điều này bằng những sự chắc chắn được giả định của chúng ta. Ngay cả khi đời sống của ai đó có vẻ hoàn toàn hư hỏng, ngay cả khi chúng ta thấy nó bị hủy hoại bởi những đồi bại hay nghiện ngập, thì Thiên Chúa vẫn hiện diện ở đó. Nếu chúng ta muốn được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần chứ không phải bởi những định kiến của mình, thì chúng ta có thể và phải cố gắng tìm thấy Chúa trong mọi đời sống con người. Đây là một phần của mầu nhiệm mà một não trạng ngộ đạo không thể chấp nhận, vì nó vượt quá sự kiểm soát của não trạng đó.

Các giới hạn của lý trí

  1. Không dễ để nắm hiểu sự thật mà chúng ta đã nhận từ Chúa. Và càng khó diễn đạt nó. Vì thế chúng ta không thể cho rằng cách mình hiểu sự thật nào đó sẽ trao cho mình cái quyền thực thi một sự giám sát nghiêm ngặt trên đời sống của những người khác. Ở đây tôi muốn ghi nhận rằng trong Giáo hội vẫn hợp pháp tồn tại những cách khác nhau để diễn dịch nhiều khía cạnh của giáo lý và đời sống Kitô giáo; trong sự đa dạng của mình, chúng “giúp diễn tả rõ hơn sự phong phú vô cùng của lời Thiên Chúa”. Quả thật đối với những ai mong muốn có một bộ giáo thuyết nguyên khối cứng nhắc được tuân thủ bởi mọi người và không chừa chỗ nào cho sắc thái tinh tế, thì điều này sẽ có vẻ làm họ dị ứng và dẫn tới lộn xộn”. [39] Thật vậy, một số trào lưu ngộ đạo thuyết đã xem thường tính mộc mạc đơn giản của Tin Mừng và đã tìm cách thay thế vị Thiên Chúa ba ngôi vị và nhập thể bằng một Đơn Nhất Tính tối cao, trong đó sự đa dạng phong phú của lịch sử chúng ta biến mất.
  2. Như vậy, giáo thuyết, hay nói đúng hơn, cách ta hiểu và diễn đạt giáo thuyết, “không phải là một hệ thống đóng kín, không có chỗ cho khả năng năng động của việc nêu những chất vấn, nghi ngờ, thẩm tra… Những vấn đề của dân chúng, khổ đau của họ, những vật lộn, những ước mơ, những thử thách và muộn phiền của họ, tất cả đều có một giá trị diễn dịch mà chúng ta không thể phớt lơ nếu chúng ta muốn nghiêm túc tôn trọng nguyên lý nhập thể. Việc họ ngạc nhiên giúp chúng ta biết ngạc nhiên, những dấu hỏi của họ chất vấn chúng ta”. [40]
  3. Một sự lẫn lộn nguy hiểm có thể hiện lên. Chúng ta có thể nghĩ rằng bởi vì mình biết một điều gì đó, hay mình có thể giải thích nó bằng một số lời lẽ, thì do vậy mà chúng ta đã là các vị thánh rồi, hoàn hảo và tốt hơn “những đám đông dốt nát” kia. Thánh Gioan Phaolô II cảnh báo về cái cám dỗ đối với những người ở trong Giáo hội vốn được học cao hiểu rộng, dễ “cảm thấy cách nào đó rằng mình ở đẳng cấp cao hơn các tín hữu khác”. [41] Thực ra, những gì chúng ta nghĩ rằng mình biết nên luôn thúc đẩy chúng ta đáp trả trọn vẹn hơn đối với tình yêu của Thiên Chúa. Quả vậy, “bạn học là để sống: thần học và sự thánh thiện không thể tách rời nhau”. [42]
  4. Khi Thánh Phanxicô Assisi thấy rằng một số môn đệ của ngài liên can đến việc dạy học, ngài muốn tránh cái cám dỗ của ngộ đạo thuyết. Ngài viết cho Thánh Antôn Padua: “Tôi vui mừng về việc anh dạy thần học cho các anh em, miễn là… anh không dập tắt tinh thần cầu nguyện và lòng đạo đức khi làm loại công việc nghiên cứu này”. [43] Thánh Phanxicô đã nhận ra mối cám dỗ của việc biến kinh nghiệm Kitô giáo thành một bộ bài tập trí thức làm cho chúng ta xa cách sự tươi mát của Tin Mừng. Đàng khác, Thánh Bônaventura chỉ ra rằng sự khôn ngoan Kitô giáo đích thực không bao giờ có thể bị tách rời khỏi lòng thương xót đối với người thân cận: “Sự khôn ngoan lớn nhất có thể, đó là biết chia sẻ những gì mình có để trao ban… Lòng thương xót là bạn đồng hành của khôn ngoan, thì cũng vậy, lòng tham lam là kẻ thù của nó”. 44] “Có những hoạt động mà nếu được kết hợp với chiêm niệm thì sẽ không cản trở chiêm niệm nhưng giúp chiêm niệm dễ dàng hơn, như những công việc của lòng thương xót và lòng mộ đạo”. [45]

THUYẾT PÊLAGIÔ HIỆN ĐẠI

  1. Ngộ đạo thuyết mở đường cho một lạc thuyết khác, cũng đang có mặt trong thời của chúng ta. Với thời gian trôi qua, nhiều người đã nhận ra rằng không phải kiến thức làm cho chúng ta nên tốt hơn hay biến ta thành những vị thánh, nhưng chính là chất lượng đời sống của mình. Nhưng một cách tinh tế, điều này đã dẫn trở lại cái sai lầm cũ của những người ngộ đạo, nghĩa là sai lầm ấy chỉ đơn thuần được biến dạng chứ không bị loại bỏ.
  2. Cái sức mạnh mà những người ngộ đạo gán cho trí năng, thì giờ đây nó bắt đầu được những người khác gán cho ý chí, tức sự nỗ lực riêng của con người. Đây là trường hợp của những người theo thuyết pêlagiô và nửa-pêlagiô. Ở đây mầu nhiệm và ân sủng không bị giành chỗ bởi trí năng, mà bởi ý chí con người. Người ta quên mất rằng mọi sự “tùy thuộc không phải vào ý chí hay nỗ lực của con người, nhưng tùy thuộc vào Thiên Chúa là Đấng thương xót” (Rm 9,16) và rằng “Ngài đã yêu chúng ta trước” (x. 1Ga 4,19).

Một ý chí thiếu lòng khiêm nhường    

  1. Những ai theo tâm thức pêlagiô hay nửa-pêlagiô, ngay cả dù họ sốt sắng nói về ân sủng của Thiên Chúa, thì “rốt cục họ chỉ tin tưởng vào sức mạnh của mình và cảm thấy mình cao hơn người khác bởi vì họ giữ một số qui tắc hay kiên thủ trung thành với một phong cách Công giáo nào đó”. [46] Khi một số trong họ nói với người yếu đuối rằng mọi sự đều có thể đạt được với ơn Chúa, thì tận thâm tâm họ có xu hướng muốn nói rằng mọi sự đều có thể nhờ ý chí con người, cơ hồ như ý chí con người là tinh thuần, hoàn hảo, toàn năng, mà ân sủng chỉ là cái được bổ sung vào. Họ không nhận ra rằng “không phải ai cũng có thể làm được mọi sự”, [47] và rằng trong cõi đời này những yếu đuối của con người không được chữa lành một cách hoàn toàn và dứt khoát bởi ân sủng. [48] Như Thánh Augustinô dạy, trong mọi trường hợp, Thiên Chúa yêu cầu bạn hãy làm điều bạn có thể, và hãy cầu xin những gì bạn không thể, [49] và quả thực bạn hãy khiêm tốn cầu nguyện: “Xin Chúa ban điều Chúa truyền dạy, và xin Chúa truyền dạy điều Chúa muốn”. 50]
  2. Cuối cùng, việc thiếu sự nhìn nhận trong tinh thần chân thành và cầu nguyện về những giới hạn của mình sẽ không cho phép ân sủng hoạt động hữu hiệu trong chúng ta, vì không còn chỗ cho tiềm năng thiện hảo vốn gắn liền với hành trình trưởng thành chân thực. [51] Ân sủng, chính bởi vì dựa trên tự nhiên, không làm cho chúng ta trở thành siêu nhân ngay lập tức. Cách nghĩ ấy cho thấy sự quá tin tưởng vào những khả năng của mình. Ẩn bên dưới tính chính thống của mình, các thái độ của chúng ta có thể không tương hợp với những gì mình nói về nhu cầu cần có ân sủng, và trong những trường hợp cụ thể nào đó, chúng ta có thể rốt cục chẳng tin tưởng vào ân sủng bao nhiêu. Trừ phi chúng ta có thể nhìn nhận hoàn cảnh cụ thể và giới hạn của mình, chúng ta sẽ không thể thấy được những bước thực tế và khả dĩ mà Chúa yêu cầu mình tại mỗi khoảnh khắc, khi mà chúng ta được lôi cuốn và được tăng cường sức mạnh bởi ân sủng của Chúa. Ân sủng hoạt động trong lịch sử; và ân sủng thường nắm giữ và dần dần biến đổi chúng ta. [52] Nếu chúng ta loại bỏ thực tại có tính lịch sử và tiến bộ này, thì đấy là chúng ta thực sự từ khước và chặn đứng ân sủng, cho dù chúng ta tán dương ân sủng bằng lời lẽ của mình.
  3. Khi Thiên Chúa ngỏ lời với Abraham, Ngài bảo: “Ta là Đức Chúa Toàn Năng, ngươi hãy bước đi trước mặt Ta, và hãy sống hoàn hảo” (St 17,1). Để sống hoàn hảo như Ngài kêu gọi mình, chúng ta cần sống khiêm nhường trong sự hiện diện của Ngài, mặc lấy áo choàng vinh quang của Ngài, chúng ta cần bước đi trong sự kết hợp với Ngài, nhận ra tình yêu thường hằng của Ngài trong đời sống mình. Chúng ta cần bỏ đi nỗi sợ hãi của mình trước sự hiện diện vốn chỉ có ý nghĩa tốt lành cho chúng ta. Thiên Chúa là người Cha đã trao ban cho chúng ta sự sống và yêu thương chúng ta vô cùng. Một khi ta biết chấp nhận Ngài, và không còn cố sống cuộc sống mình một cách bất cần Ngài, thì nỗi khổ cô đơn sẽ biến mất (x. Tv 139,23-24). Bằng cách này chúng ta sẽ biết ý Chúa muốn về cái gì là đẹp lòng Ngài và hoàn hảo (x. Rm 12,1-2) và sẽ cho phép Ngài đúc nặn chúng ta như một người thợ gốm (x. Is 29,16). Rất thường, ta nói rằng Thiên Chúa ở trong ta, nhưng tốt hơn nên nói rằng chúng ta ở trong Thiên Chúa, rằng Ngài giúp ta có thể ở trong ánh sáng và tình yêu của Ngài. Ngài là đền thờ của chúng ta; chúng ta xin được cư ngụ trong nhà Chúa mọi ngày suốt đời mình (x. Tv 27,4). “Vì một ngày trong hành lang nhà Chúa thì hơn cả ngàn ngày ở nơi khác” (Tv 84,10). Sự thánh thiện của chúng ta ở nơi Ngài.

Một giáo huấn của Giáo hội thường bị bỏ qua      

  1. Giáo hội không ngừng dạy rằng chúng ta được công chính hóa không phải bởi những việc làm hay những cố gắng của riêng mình, nhưng là bởi ân sủng của Chúa, Đấng luôn luôn đi bước trước. Các giáo phụ, ngay cả trước thời Thánh Augustinô, đã diễn tả rõ ràng niềm tin căn bản này. Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng Thiên Chúa đổ tràn trên chúng ta chính nguồn ân ban của Ngài ngay cả trước khi chúng ta đi vào cuộc chiến đấu. [53] Thánh Basiliô Cả lưu ý rằng vinh quang của người tín hữu chỉ ở nơi Thiên Chúa mà thôi, vì “họ nhận ra rằng mình thiếu sự công chính đích thực và được công chính hóa duy chỉ nhờ lòng tin vào Đức Kitô”. [54]
  2. Công đồng Orange thứ hai đã dạy với thẩm quyền vững chắc rằng con người không thể đòi hỏi gì, xứng đáng gì, cũng không thể mua được ân sủng thần linh, và rằng tất cả sự cộng tác với ân sủng ấy chính là ân ban tiên vàn của nó: “Ngay cả khát vọng được thanh tẩy cũng đến với chúng ta nhờ sự tuôn tràn và sự hoạt động của Chúa Thánh Thần”. [55] Vì thế, Công đồng Trentô, trong khi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chúng ta cộng tác trong công cuộc trưởng thành tâm linh, đã tái xác nhận giáo lý ấy: “Chúng ta được công chính hóa cách nhưng không, vì không có gì đi trước sự công chính hóa, không phải đức tin cũng không phải việc làm, mà xứng đáng với ơn công chính hóa; vì ‘nếu do ân sủng, thì không còn dựa vào việc làm nữa; nếu chẳng vậy, thì ân sủng đâu còn là ân sủng nữa’ (Rm 11,6)”. [56]
  3. Giáo lý của Giáo hội Công giáo cũng nhắc chúng ta rằng ân sủng được trao ban thì “vượt quá năng lực của trí năng và ý chí con người” [57] và rằng “đối với Thiên Chúa, con người chẳng có quyền đòi hỏi Ngài bất cứ gì cả. Giữa Thiên Chúa và chúng ta là một khoảng cách khôn lường”. [58] Tình bạn của Ngài muôn trùng siêu vượt trên chúng ta; ta không thể mua nó với những việc làm của mình, nó chỉ có thể là một quà tặng do sáng kiến yêu thương của Ngài. Điều này mời gọi chúng ta hân hoan sống tâm tình biết ơn về ân ban mà mình hoàn toàn bất xứng này, vì “khi người ta nhận được ân sủng, thì ân sủng đã nhận được ấy không thể do người ta xứng đáng”. [59] Các thánh tránh đặt niềm tin tưởng vào các công việc của mình: “Vào buổi chiều của cuộc đời này, con sẽ đến trước mặt Chúa với đôi bàn tay trắng, vì lạy Chúa, con không xin Chúa đo đếm các việc làm của con. Tất cả sự công chính của chúng con đều nhiễm tì vết trước con mắt Chúa”. [60]
  4. Đây là một trong những xác tín quan trọng mà Giáo hội vẫn giữ vững. Nó được diễn tả rõ ràng trong lời Chúa đến nỗi không thể nào bị chất vấn. Giống như điều răn trọng nhất về yêu thương, chân lý này phải tác động đến cách sống của chúng ta, vì nó chảy từ cốt lõi của Tin Mừng và đòi ta không chỉ chấp nhận nó trong trí năng, mà còn phải biến nó thành một nguồn vui lan tỏa. Tuy nhiên chúng ta không thể mừng món quà tặng nhưng không này, tức tình bạn với Chúa, trừ phi chúng ta nhận ra rằng đời sống của mình trên dương thế này và những khả năng tự nhiên của mình đều là ân ban của Chúa. Chúng ta cần biết “hân hoan nhìn nhận rằng sự sống của mình thiết yếu là một quà tặng, và nhận ra rằng sự tự do của mình là một ân sủng. Điều này thật không dễ hôm nay, trong một thế giới vốn nghĩ rằng tự nó có thể có được điều gì đó, như là do sáng kiến hay tự do của nó”. [61]
  5. Duy chỉ nhờ ân ban của Thiên Chúa, được tự do và khiêm tốn đón nhận, chúng ta mới có thể cộng tác bằng những cố gắng của mình trong công cuộc biến đổi chính mình cách tiệm tiến. [62] Tiên vàn chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa, dâng hiến chính mình cho Ngài là Đấng vốn có trước ở đó, và ký thác cho Ngài các khả năng, các nỗ lực của chúng ta, cuộc chiến đấu của chúng ta chống lại sự dữ và năng lực sáng tạo của chúng ta, để cho ân huệ nhưng không của Ngài có thể lớn lên và phát triển trong chúng ta: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Vì thế, Giáo hội luôn dạy rằng chỉ đức ái mới có thể làm cho đời sống ân sủng được lớn lên, vì “nếu tôi không có đức ái, thì tôi chẳng là gì” (1Cr 13,2).

Những người theo tân thuyết pêlagiô        

  1. Thế nhưng, một số Kitô hữu vẫn cố đi con đường khác, đó là con đường công chính hóa bằng những nỗ lực riêng của mình, tức tôn thờ ý chí con người và những khả năng của họ. Kết quả là một sự tự mãn mang tính trịch thượng và qui ngã, đánh mất đi tình yêu đích thực. Điều này được diễn tả nơi nhiều cách nghĩ và cách làm có vẻ rất khác nhau: nỗi ám ảnh về lề luật, sự miệt mài bận tâm về những thuận lợi chính trị và xã hội, mối quan tâm quá chi li về phụng vụ, giáo lý và thanh thế của Giáo hội, thái độ kiêu hãnh về khả năng xử lý những vấn đề thực tiễn, và mối bận tâm quá đáng về những chương trình tự lực và sự thành tựu cá nhân. Một số Kitô hữu bỏ thời giờ và sức lực cho những điều này, hơn là cho phép chính mình được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần trên con đường yêu thương, hơn là khao khát chuyển đạt vẻ đẹp và niềm vui của Tin Mừng và khao khát tìm kiếm những người lạc mất trong những đám đông đang khát vọng Đức Kitô. [63]
  2. Đối nghịch với những gợi ý của Chúa Thánh Thần, không phải là hiếm trường hợp trong đó đời sống của Giáo hội có thể trở thành một món bảo tàng hay là của riêng của một thiểu số ưu tuyển. Điều này có thể xảy ra khi một số nhóm Kitô hữu gán tầm quan trọng quá đáng cho những qui tắc, những tập tục hay cách làm nào đó. Khi đó Tin Mừng dễ bị cắt xén và thu hẹp, bị tước mất tính chân chất, vẻ quyến rũ và hương vị của nó. Đây có thể là một dạng tinh vi của chủ thuyết pêlagiô, vì dường như nó xem đời sống ân sủng là thứ yếu so với một số cấu trúc nhân loại. Nó có thể ảnh hưởng đến các nhóm, các phong trào và các cộng đoàn, và điều này giải thích tại sao rất thường các nhóm ấy bắt đầu với một sức sống mạnh mẽ trong Chúa Thánh Thần, chỉ để kết thúc trong tình trạng hóa thạch… hay thối nát.
  3. Một khi chúng ta tin rằng mọi sự lệ thuộc vào cố gắng của con người như được chuyển tải bởi các qui tắc và các cơ cấu của Giáo hội, chúng ta sẽ vô tình làm cho Tin Mừng trở nên phức tạp, và ta trở thành nô lệ cho một đề án vốn không chừa mấy chỗ để đón nhận hoạt động của ân sủng. Thánh Tôma Aquinô nhắc chúng ta rằng những giáo huấn mà Giáo hội bổ sung vào Tin Mừng phải được đặt ra cách chừng mực, “để đời sống của tín hữu không trở thành gánh nặng”, vì nếu chẳng vậy thì tôn giáo của chúng ta sẽ trở thành một dạng đày đọa. [64]

Tóm kết lề luật

  1. Để tránh điều nói trên, chúng ta cần tự nhắc mình rằng có một phẩm trật các nhân đức và chúng ta được mời gọi tìm kiếm điều gì là cốt yếu. Ưu tiên hàng đầu thuộc về các nhân đức đối thần, với Thiên Chúa là đối tượng và là động lực. Trọng tâm chính là đức ái. Thánh Phaolô nói rằng điều thực sự đáng kể là “đức tin hoạt động qua đức ái” (Gl 5,6). Chúng ta được kêu gọi dành mọi nỗ lực để giữ đức ái: “Ai yêu tha nhân thì chu toàn lề luật… vì yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,8.10). “Vì tất cả lề luật được tóm kết trong một lệnh truyền duy nhất: ‘Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình’” (Gl 5,14).
  2. Nói cách khác, ở giữa một rừng những huấn lệnh và qui tắc, Chúa Giêsu vạch rõ cách để nhìn thấy hai khuôn mặt, khuôn mặt của Chúa Cha và khuôn mặt của người anh em. Người không trao cho chúng ta thêm hai công thức hay thêm hai điều răn. Người trao cho chúng ta hai khuôn mặt, hay đúng hơn, chỉ một mà thôi: đó là khuôn mặt của Thiên Chúa được phản ảnh nơi vô số những khuôn mặt khác. Vì nơi mọi anh chị em mình, đặc biệt là những người bé mọn nhất, những người yếu đuối nhất, những người không có khả năng tự vệ và những người túng quẫn, ở đó chính hình ảnh của Thiên Chúa được gặp thấy. Thực vậy, với những mảnh phận người mong manh này, Chúa sẽ làm nên tác phẩm cuối cùng của Người. Vì “cái gì bền vững, cái gì có giá trị trong đời sống, của cải nào không biến mất? Chắc chắn là hai điều này: Chúa và tha nhân. Hai của cải này không biến mất!” [65]
  3. Nguyện xin Chúa giải phóng Giáo hội khỏi những hình thức mới này của thuyết ngộ đạo và thuyết pêlagiô, là những thứ đè nén Giáo hội và ngăn chặn Giáo hội tiến lên trên đường thánh thiện! Những sai lầm này mang nhiều dạng khác nhau, tùy theo khí chất và tính cách của mỗi người. Vì thế tôi khích lệ mọi người suy tư và phân định trước mặt Chúa, để xem chúng có tồn tại trong đời sống mình hay không.

CHƯƠNG III TRONG ÁNH SÁNG CỦA TÔN SƯ

  1. Có thể có vô số lý thuyết về điều gì làm nên sự thánh thiện, với những giải thích và những sự phân biệt khác nhau. Suy tư như thế có thể hữu ích, nhưng không có gì khai trí hơn là hướng về để nghe lời của Chúa Giêsu và nhìn cách Người giảng dạy sự thật. Chúa Giêsu giải thích một cách vô cùng dung dị đâu là ý nghĩa của việc nên thánh khi Người trao cho chúng ta Các Mối Phúc (x. Mt 5,3-12; Lc 6,20-23). Các Mối Phúc giống như một căn cước Kitô hữu. Vì thế, nếu có ai hỏi: “Người ta phải làm gì để trở thành một Kitô hữu tốt?”, thì câu trả lời thật rõ. Chúng ta phải làm, mỗi người theo cách của mình, những gì Chúa Giêsu dạy chúng ta trong Bài Giảng Trên Núi. [66] Trong Các Mối Phúc, chúng ta gặp thấy một chân dung của vị Tôn Sư, và chúng ta được mời gọi phản chiếu chân dung này trong đời sống hằng ngày của mình.
  2. Từ “hạnh phúc” hay “được chúc phúc”, vì thế, trở thành từ đồng nghĩa với “thánh thiện”. Nó diễn tả sự thật rằng những ai trung thành với Thiên Chúa và lời của Ngài, bằng cách trao hiến chính mình, thì đạt được hạnh phúc đích thực.

LỘI NGƯỢC DÒNG

  1. Mặc dù những lời của Chúa Giêsu có thể trao cho ta ấn tượng đầy thi vị, những lời ấy rõ ràng đi ngược với cách người ta sống trong thế giới hôm nay. Ngay cả dù chúng ta nhận thấy sứ điệp của Chúa Giêsu đầy lôi cuốn, thế giới vẫn đẩy chúng ta về một lối sống khác. Các Mối Phúc không hề lỗi thời hay dễ dãi, mà hoàn toàn ngược lại như thế. Chúng ta chỉ có thể thực hành Các Mối Phúc nếu Chúa Thánh Thần đổ đầy trong chúng ta sức mạnh của Ngài và giải phóng chúng ta khỏi sự yếu hèn, ích kỷ, tự mãn và kiêu ngạo của mình.
  2. Chúng ta hãy lắng nghe Chúa Giêsu một lần nữa, với tất cả yêu thương và kính trọng mà vị Tôn Sư đáng nhận được. Chúng ta hãy cho phép những lời của Người làm xáo trộn chúng ta, thách đố và đòi hỏi chúng ta có một sự thay đổi thật sự trong lối sống của mình. Nếu chẳng vậy, sự thánh thiện sẽ vẫn không là gì hơn một từ trống rỗng. Giờ đây chúng ta tập chú vào từng Mối Phúc trong Tin Mừng theo Thánh Matthêu (x. Mt 5,3-12). [67]

“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”

  1. Tin Mừng mời gọi chúng ta nhìn kỹ vào tận sâu thẳm tâm hồn mình, để thấy đâu là nơi chúng ta tìm thấy sự an toàn của mình trong đời sống. Người giàu thường cảm thấy an toàn nơi của cải, và nghĩ rằng nếu của cải ấy bị đe dọa thì tất cả ý nghĩa cuộc sống của họ trên đời này có thể tan tành. Chính Chúa Giêsu nói với ta điều này trong dụ ngôn về người giàu ngu ngốc: Người nói về một ông kia rất tự tin nơi mình, nhưng ngu ngốc, vì ông không hề biết rằng ông có thể chết ngay hôm ấy (x. Lc 12,16-21).
  2. Của cải chẳng bảo đảm được gì. Thật vậy, một khi ta nghĩ mình giàu, chúng ta có thể trở thành tự mãn đến nỗi không còn chỗ nào cho lời Chúa, cho tình yêu đối với anh chị em mình, hay cho việc thưởng thức những điều quan trọng nhất trong đời sống. Bằng cách đó, chúng ta hụt mất kho tàng lớn lao nhất. Vì thế Chúa Giêsu gọi những ai có tinh thần nghèo khó là những người có phúc, họ có một trái tim tội nghiệp, và Chúa có thể đi vào đó với tính mới mẻ mãi của Người.
  3. Sự khó nghèo thiêng liêng thì gắn chặt với điều mà Thánh Inhaxiô Loyola gọi là “sự bình tâm thánh thiện”, vốn đưa chúng ta tới một sự tự do nội tâm ngời sáng: “Chúng ta cần tự rèn luyện để có thái độ bình tâm đối với mọi thụ tạo, trong tất cả những gì mà ý chí tự do của mình được phép chứ không bị cấm cản; sao cho về phần mình, chúng ta không nghiêng chiều về sức khỏe hơn là đau ốm, giàu có hơn là nghèo khó, danh dự hơn là ô nhục, sống lâu hơn là mệnh yểu, và mọi điều tương tự như thế”. [68]
  4. Luca không nói về sự nghèo khó “trong tinh thần” nhưng đơn giản nói về những người “nghèo” (x. Lc 6,20). Như vậy, vị thánh sử cũng mời gọi chúng ta sống một đời sống khổ hạnh và giản dị. Ngài mời gọi chúng ta chia sẻ đời sống của những người túng thiếu nhất, đời sống của các Tông đồ, và nhất là nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, Đấng tuy giàu có, “đã tự nguyện trở nên nghèo khó” (2Cr 8,9).

Nghèo khó trong tâm hồn: đó là thánh thiện.

“Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được đất làm cơ nghiệp”    

  1. Đây là những lời mạnh mẽ trong một thế giới mà ngay từ ban đầu đã là nơi của xung đột, bất đồng và thù địch ở mọi phía, nơi mà chúng ta thường xuyên xếp loại người khác dựa trên tư tưởng của họ, dựa trên tập tục và thậm chí cách nói năng hay cách ăn mặc của họ. Cuối cùng, đó là sự ngự trị của thói tự phụ và kiêu căng, trong đó người ta nghĩ mình có quyền thống trị kẻ khác. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đề ra một lối xử sự khác, dù có vẻ như là điều không thể, đó là con đường hiền hòa. Đây là cách mà ta thấy Người sống với các môn đệ. Ta cũng chiêm ngắm điều này khi Người vào thành Giêrusalem: “Này đây, đức vua của ngươi đang đến với ngươi, khiêm nhường ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5; Dcr 9,9).
  2. Đức Kitô nói: “Hãy học với tôi; vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường, và tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,29). Nếu chúng ta thường xuyên khó chịu và nóng nảy với người khác, chúng ta sẽ đi đến kiệt quệ và mệt mỏi. Nhưng nếu chúng ta đối diện những sai lỗi và những giới hạn của người khác với sự dịu dàng và hiền hòa, không ra vẻ kẻ cả, thì chúng ta có thể thực sự giúp ích họ và không còn phí năng lực vào việc phàn nàn vô ích. Thánh Têrêsa Lisieux nói với chúng ta rằng “đức ái trọn hảo hệ tại ở việc đón nhận những sai lỗi của kẻ khác, và không bị vấp ngã vì những lỗi của họ”. [69]
  3. Thánh Phaolô nói về sự hiền lành như một trong những hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5,23). Ngài cho rằng nếu một hành động sai của người anh chị em nào đó làm phiền ta, chúng ta nên cố gắng sửa lỗi họ, nhưng “với một tinh thần hiền lành”, bởi vì “cả bạn nữa cũng có thể bị cám dỗ” (Gl 6,1). Ngay cả khi chúng ta bảo vệ đức tin và những niềm xác tín của mình, chúng ta cũng phải làm thế “một cách hiền hòa” (x. 1Pr 3,16). Cũng phải cư xử với những kẻ thù mình “một cách hiền hòa” (2Tm 2,25). Trong Giáo hội, chúng ta thường sai lỗi do không đáp lại yêu cầu này của lời Chúa.
  4. Hiền lành là một cách diễn tả sự nghèo khó bên trong của những ai đặt tin tưởng vào chỉ một mình Thiên Chúa. Thật vậy, trong Thánh Kinh cùng một từ “anawim” thường nói đến cả những người nghèo khó lẫn những người hiền lành. Có người có thể chống chế: “Nếu tôi hiền như vậy, người ta sẽ cho tôi là một tên ngốc, một kẻ khờ hay nhu nhược”. Đúng là đôi khi người ta nghĩ vậy, nhưng vậy cũng không sao. Hiền lành luôn luôn là điều tốt hơn, vì như vậy những khát vọng sâu xa nhất của chúng ta sẽ được lấp đầy. Người hiền lành “sẽ được đất làm cơ nghiệp”, vì họ sẽ nhìn thấy các lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện trong đời sống mình. Trong mọi hoàn cảnh, người hiền lành đặt hy vọng nơi Chúa, và những ai đặt hy vọng vào Chúa thì sẽ sở hữu được đất… và cảm nhận được sự bình an tròn đầy (x. Tv 37,9.11). Về phần Ngài, Chúa tin tưởng nơi họ: “Kẻ được ta đoái nhìn, đó là người khiêm nhường, người có tâm hồn tan nát, người biết kính sợ lời ta” (Is 66,2).

Cư xử với sự hiền lành và khiêm nhường: đó là thánh thiện.

“Phúc cho những ai than khóc, vì họ sẽ được ủi an”    

  1. Thế giới nói với chúng ta điều hoàn toàn ngược lại: giải trí, thú vui, tiêu khiển và thoát ly thực tế mới làm cho đời vui. Con người thế gian tránh né các vấn đề đau ốm hay buồn phiền nơi gia đình hay ở xung quanh mình; họ quay mặt đi chỗ khác. Thế giới không muốn than khóc; nó không quan tâm đến những hoàn cảnh đau thương, và tìm cách che giấu các hoàn cảnh ấy. Người ta tiêu tốn nhiều năng lực để trốn tránh đau khổ với niềm tin rằng họ có thể che lấp được thực tế. Nhưng thập giá chẳng bao giờ vắng bóng.
  2. Một người biết nhìn sự vật đúng như sự thật của chúng và biết cảm thông với những nỗi buồn đau, đó là người có thể chạm đến những chiều sâu của đời sống và tìm thấy hạnh phúc chân thực. [70] Người ấy được ủi an, không phải bởi thế gian nhưng là bởi Chúa Giêsu. Những người như thế không ngại chia sẻ khổ đau của người khác; họ không trốn tránh các hoàn cảnh đau buồn. Họ khám phá ý nghĩa của đời sống qua việc đi đến giúp đỡ những ai đau khổ, cảm thông nỗi khốn khó của người ta và đem lại sự xoa dịu. Họ cảm nhận rằng tha nhân là thịt bởi thịt mình, họ không sợ đến gần, ngay cả chạm đến những vết thương nơi người ấy. Họ chạnh lòng thương cảm người khác đến nỗi mọi khoảng cách đều không còn. Bằng cách đó họ sống giáo huấn của Thánh Phaolô: “Hãy khóc với người khóc” (Rm 12,15).

Biết cách khóc than với tha nhân: đó là thánh thiện.

“Phúc cho những ai đói khát công lý, vì họ sẽ được thỏa lòng”

  1. Đói và khát là những kinh nghiệm nhức nhói, vì chúng liên quan tới các nhu cầu căn bản và bản năng sống còn của chúng ta. Có những người mong mỏi công lý và khát khao sự chính trực với cùng cường độ như vậy. Chúa Giêsu nói rằng họ sẽ được thỏa lòng, vì sớm hay muộn công lý sẽ đến. Chúng ta có thể cộng tác để làm cho điều đó thành hiện thực, cho dù có thể chúng ta không luôn luôn nhìn thấy kết quả những cố gắng của mình.
  2. Chúa Giêsu đem lại một nền công lý khác với thứ công lý của thế gian, là thứ vốn thường bị phá hỏng bởi những lợi ích tầm thường và bị làm méo mó bằng nhiều cách. Kinh nghiệm cho thấy người ta thật dễ vướng vào tham nhũng, dễ bị mắc bẫy trong thứ chính trị đổi chác hằng ngày, trong đó mọi sự trở thành việc mua bán. Biết bao người phải chịu sự bất công, đành bất lực đứng bên lề trong khi những kẻ khác thu tóm hết những béo bở của cuộc sống này. Một số bỏ cuộc, không đấu tranh cho công lý đích thực nữa và chọn thỏa hiệp với những kẻ nắm ưu thế. Điều này không liên quan gì tới nỗi đói khát công lý mà Chúa Giêsu biểu dương.
  3. Công lý thực sự đến trong đời sống của người ta khi họ công chính trong các quyết định của mình; nó được diễn tả nơi việc họ tìm kiếm công lý cho người nghèo và người yếu thế. Trong khi quả thực là từ “công lý” có thể là một từ đồng nghĩa với sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trong mọi khía cạnh của đời sống chúng ta, nếu chúng ta hiểu từ này theo một nghĩa quá rộng, thì chúng ta quên rằng nó được diễn tả cách đặc biệt trong công lý cho những người yếu đuối nhất: “Hãy tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, bảo vệ cô nhi, biện hộ cho quả phụ” (Is 1,17).

Đói khát sự công chính: đó là thánh thiện.

“Phúc cho những ai thương xót, vì họ sẽ được xót thương”        

  1. Lòng thương xót có hai phương diện. Nó liên quan đến việc chia sẻ, giúp đỡ và phục vụ người khác, nhưng nó cũng bao gồm sự tha thứ và cảm thông. Matthêu đúc kết trong một qui tắc vàng: “Trong mọi sự, hãy làm cho người khác những gì bạn muốn họ làm cho mình” (7,12). Sách Giáo lý nhắc chúng ta rằng luật này phải được áp dụng “trong mọi trường hợp”, [71] nhất là khi chúng ta “đứng trước những hoàn cảnh làm cho các phán quyết luân lý ít chắc chắn và làm cho việc quyết định trở thành khó khăn”. [72]
  2. Trao hiến và tha thứ có nghĩa là tái sản xuất trong đời sống chúng ta một mức bé nhỏ của sự hoàn hảo nơi Thiên Chúa, Đấng trao hiến và thứ tha vô ngần vô lượng. Vì thế, trong Tin Mừng Luca chúng ta không nghe bảo “Hãy nên hoàn thiện” (Mt 5,48), nhưng là: “Hãy thương xót, như Cha anh em là Đấng thương xót. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Hãy tha thứ, thì anh em sẽ được Thiên Chúa thứ tha; hãy cho, thì anh em sẽ được Thiên Chúa cho lại” (6,36-38). Rồi Luca thêm một điều mà chúng ta không thể bỏ qua: “Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (6,38). Trao mức nào, sẽ nhận mức đó. Chúng ta đừng bao giờ quên điều này.
  3. Chúa Giêsu không nói: “Phúc cho những ai rắp tâm trả thù”. Người gọi là “phúc” đối với những ai tha thứ và tha thứ “bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Chúng ta cần nghĩ về chính chúng ta như một đoàn quân của những người được tha thứ. Tất cả chúng ta đều đã được lòng trắc ẩn của Thiên Chúa nhìn đến. Nếu chúng ta đến với Chúa với lòng chân thành và chăm chú lắng nghe, sẽ có những lúc chúng ta nghe Người trách cứ: “Ngươi không phải thương xót đồng bọn, như ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,33).

Biết nhìn và biết hành động với lòng thương xót: đó là thánh thiện.

“Phúc cho những ai có trái tim trong sạch, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa”

  1. Mối Phúc này nói về những ai có tâm hồn đơn sơ, thuần khiết và không uế nhiễm, vì một trái tim có khả năng yêu thương thì không chấp nhận bất cứ gì có thể làm tổn hại, yếu nhược hay gây nguy hiểm cho tình yêu ấy. Thánh Kinh dùng hình ảnh trái tim để diễn tả những ý hướng thực sự của chúng ta, những gì mà chúng ta thực sự tìm kiếm và khao khát, khác với tất cả những vẻ bên ngoài. “Con người nhìn vẻ bên ngoài, nhưng Chúa nhìn tận trong trái tim” (1Sm 16,7). Thiên Chúa muốn nói với trái tim chúng ta (x. Hs 2,16); Ngài muốn ghi luật của Ngài vào đó (x. Gr 31,33). Nói tắt, Ngài muốn ban cho chúng ta một quả tim mới (x. Ez 36,26).
  2. “Hãy gìn giữ trái tim con cho thật kỹ” (Cn 4,23). Người không nhiễm ố bởi sự giả dối thì có giá trị thực sự trước con mắt của Chúa. Người ấy “luôn tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt” (Kn 1,5). Chúa Cha, “Đấng thấu suốt mọi bí ẩn” (Mt 6,6), nhìn thấy rõ cái gì là không trong sáng và không chân thành, cái gì chỉ là phô trương bên ngoài, và Chúa Con cũng thế, Người biết rõ “lòng người ta” (x. Ga 2,25).
  3. Chắc chắn không thể có yêu thương nếu không có những việc làm của yêu thương, nhưng Mối Phúc này nhắc chúng ta rằng Chúa mong muốn nhìn thấy một quyết tâm dấn thân cho anh chị em mình phát xuất từ trái tim của ta. Vì “giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Cũng thế, trong Tin Mừng Matthêu chúng ta thấy rằng cái phát xuất từ lòng người ta là cái làm cho họ ô uế (x. 15,18), vì tự lòng dạ phát xuất những ý định giết người, trộm cắp, làm chứng gian, và những việc xấu xa khác (x. 15,19). Chính ý hướng trong trái tim là nguồn gốc của những khao khát và những quyết định thâm sâu dẫn tới các hành động của chúng ta.
  4. Một trái tim yêu mến Thiên Chúa và tha nhân (x. Mt 22,36-40), cách chân thành chứ không chỉ đầu môi chót lưỡi, là một trái tim trong sạch; nó có thể nhìn thấy Thiên Chúa. Trong bài ca đức ái của ngài, Thánh Phaolô nói rằng “hiện nay chúng ta nhìn thấy mờ mờ trong gương” (1Cr 13,12), nhưng khi sự thật và tình yêu khải thắng, chúng ta sẽ có thể nhìn thấy “diện đối diện”. Chúa Giêsu hứa rằng những ai trong sạch trong quả tim “sẽ nhìn thấy Thiên Chúa”.

Giữ một trái tim tự do khỏi tất cả những gì làm ố nhiễm tình yêu: đó là thánh thiện.

“Phúc cho những ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”

  1. Mối Phúc này làm chúng ta nghĩ đến những tình trạng chiến tranh bất tận trong thế giới. Nhưng chính chúng ta thường là một nguyên nhân của xung đột hay ít nhất là của sự hiểu lầm. Chẳng hạn, tôi có thể nghe một điều gì đó về một ai đó, và tôi đi lặp lại nó. Thậm chí có thể tôi thêm thắt vào và làm lan tràn nó… Và câu chuyện càng gây tai hại thì dường như tôi càng khoái chí. Cái thế giới ngồi lê đôi mách của những người tiêu cực và phá hoại không thể nào đem lại hòa bình. Những người như thế thật sự là kẻ thù của hòa bình; họ không thể nào “có phúc”. [73]
  2. Những người xây dựng hòa bình mới thực sự “tạo ra” hòa bình; họ vun đắp hòa bình và tình thân hữu trong xã hội. Chúa Giêsu đưa ra lời hứa tuyệt vời này cho những người gieo rắc hòa bình: “Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Người bảo các môn đệ rằng dù đi tới đâu họ cũng phải nói: “Bình an cho nhà này!” (Lc 10,5). Lời Chúa dạy mọi tín hữu ra sức làm việc cho hòa bình, “ăn ở thuận hòa với tất cả những ai kêu cầu Chúa với tấm lòng trong sạch” (x. 2Tm 2,22), vì “người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình” (Gc 3,18). Và nếu có những lúc trong cộng đoàn mình, chúng ta tự hỏi phải làm gì, thì “chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an” (Rm 14,19), vì hiệp nhất thì tốt hơn là xung đột. [74]
  3. Thật không dễ “tạo ra” sự bình an này của Phúc âm, sự bình an vốn không loại trừ ai nhưng đón nhận ngay cả những người kỳ cục, những người gây phiền hay khó tính, những người khắt khe, lập dị, những người bị đời làm cho thê thảm, hay đơn giản chỉ là những người ta không ưa. Thật là một việc khó; nó đòi ta phải có tâm trí thật cởi mở, vì đây không phải là chuyện tạo ra “một sự đồng thuận trên giấy tờ hay một sự dàn hòa tạm bợ cho một thiểu số hài lòng”, [75] cũng không phải một kế hoạch “của một số người cho một số người”. [76] Đây cũng không thể là chuyện cố gắng phớt lơ hay coi nhẹ sự xung đột; trái lại, người ta phải thẳng thắn đối diện xung đột, giải quyết nó và biến nó thành một mắt xích của một tiến trình mới”. [77] Chúng ta phải là những nghệ nhân của hòa bình, vì xây dựng hòa bình là một nghệ thuật đòi phải có sự bình tâm, sáng tạo, nhạy cảm và khéo léo.

Gieo rắc sự bình an khắp xung quanh mình: đó là thánh thiện.

“Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ”

  1. Chính Chúa Giêsu cảnh báo rằng con đường mà Người đề nghị thì đi ngược dòng, thậm chí bắt chúng ta thách thức xã hội bằng cách sống của mình, và vì thế trở thành một sự quấy rầy. Người nhắc chúng ta về vô số người đã và đang bị bách hại chỉ vì họ đấu tranh cho công lý, vì họ nghiêm túc dấn thân cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu không muốn lặn ngụp vào tình trạng xoàng xĩnh vật vờ, chúng ta đừng mong muốn một đời sống dễ dãi, vì “ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất” (Mt 16,25).
  2. Để sống Tin Mừng, chúng ta không thể kỳ vọng rằng mọi sự sẽ dễ dàng, vì sự ham hố quyền lực và những lợi ích thế gian thường cản lối chúng ta. Thánh Gioan Phaolô II ghi nhận rằng “một xã hội bị rối loạn nếu các hình thức tổ chức xã hội, sản xuất và tiêu thụ của nó làm cho khó khăn hơn việc hiến thân và vun đắp mối liên đới giữa người với người”. [78] Trong một xã hội như thế, chính trị, truyền thông đại chúng và các cơ chế kinh tế, văn hóa và ngay cả tôn giáo trở nên quá rối loạn đến nỗi hóa thành một cản ngại cho sự phát triển xã hội và nhân văn đích thực. Kết quả là không dễ sống triệt để Các Mối Phúc; mọi cố gắng sống như vậy sẽ bị nhìn một cách tiêu cực, bị nghi ngờ và chế giễu.
  3. Dù chúng ta có thể kinh nghiệm sự mệt mỏi và khổ sở nào đi nữa trong việc sống huấn lệnh yêu thương và theo đuổi con đường công lý, thì thập giá vẫn là nguồn tăng triển và thánh hóa của chúng ta. Chúng ta không bao giờ được quên rằng khi Tân Ước bảo chúng ta sẽ phải chịu khổ sở vì Tin Mừng, thì đó chính là nói đến sự bách hại (x. Cv 5,41; Pl 1,29; Cl 1,24; 2Tm 1,12; 1Pr 2,20; 4,14-16; Kh 2,10).
  4. Ở đây chúng ta đang nói về sự bách hại không tránh được, chứ không phải loại bách hại mà có thể chúng ta tự gây ra cho mình qua việc ngược đãi người khác. Nên thánh không phải là trở nên kỳ quặc và xa cách, làm cho người ta không thể chịu nổi do thói kiêu căng, do tính chất tiêu cực và sự cay đắng của mình. Các Tông đồ của Đức Kitô không giống như thế. Sách Công vụ Tông đồ lặp đi lặp lại rằng các ngài “được toàn dân yêu mến” (2,47; x. 4,21.33; 5,13), mặc dù một số giới cầm quyền gây phiền nhiễu và bách hại các ngài (x. 4,1-3; 5,17-18).
  5. Bách hại không phải là chuyện của quá khứ, vì hôm nay chúng ta cũng kinh nghiệm nó, hoặc là qua việc đổ máu, như điều xảy ra với rất nhiều vị tuẫn đạo thời nay, hoặc bằng những cách tinh tế hơn, như bị vu khống và bị lừa dối. Chúa Giêsu gọi chúng ta là “có phúc” khi người ta “vu khống anh em đủ điều xấu xa vì Thầy” (Mt 5,11). Có những lúc khác, bách hại có thể mang hình thức chế giễu, trong đó người ta tìm cách phỉ báng đức tin của chúng ta và cố biến chúng ta thành như trò cười.

Chấp nhận sống con đường của Tin Mừng hằng ngày, dù có thể phải trả giá: đó là thánh thiện.

TIÊU CHUẨN LỚN

  1. Ở chương 25 của Tin Mừng Matthêu (31-46), Chúa Giêsu mở rộng Mối Phúc về lòng thương xót. Nếu chúng ta tìm kiếm sự thánh thiện làm Thiên Chúa vui lòng, bản văn này cung cấp cho chúng ta một tiêu chuẩn rõ ràng mà chúng ta sẽ được phán xét dựa vào đó. “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; ta khát, các ngươi đã cho uống; ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; ta ốm đau, các ngươi đã chăm sóc; ta ngồi tù, các ngươi đã viếng thăm” (35-36).

Trung tín với Tôn Sư

  1. Thánh thiện, vì thế, không phải là chuyện ngất đi trong trạng thái mê ly thần bí. Như Thánh Gioan Phaolô II đã nói: “Nếu chúng ta thực sự bắt đầu lại từ việc chiêm ngắm Đức Kitô, chúng ta phải học biết nhìn thấy Người cách đặc biệt nơi khuôn mặt của những kẻ mà chính Người muốn đồng hóa với họ”. [79] Bản văn Matthêu 25,35-36 “không chỉ là một lời mời gọi sống đức ái: nó là một trang Kitô học rọi sáng trên mầu nhiệm Đức Kitô”. [80] Trong tiếng gọi mời nhận ra Người nơi những người nghèo và người đau khổ, chúng ta thấy mở ra chính trái tim của Đức Kitô, những cảm nghĩ và chọn lựa thâm sâu nhất của Người, mà vị thánh nào cũng tìm cách bắt chước.
  2. Trước những đòi hỏi bất khả nhượng của Chúa Giêsu, tôi có bổn phận mời gọi các Kitô hữu đón nhận trong tinh thần cởi mở chân thành, không kỳ kèo mặc cả. Nói cách khác, hãy đón nhận mà không đặt ra bất kỳ điều kiện nào, kẻo làm suy giảm tính quyết liệt của các đòi hỏi ấy. Chúa chúng ta cho thấy rất rõ rằng sự thánh thiện không thể được hiểu hay được sống tách rời khỏi những đòi hỏi này, vì lòng thương xót là “trái tim đang đập của Tin Mừng”. [81]
  3. Nếu tôi gặp một người ngủ ngoài đường trong đêm giá rét, tôi có thể nhìn người ấy như một sự phiền nhiễu, một kẻ vô tích sự, một vật cản trên đường mình đi, một cảnh tượng chướng mắt, một vấn đề để các chính khách khảo sát, hay thậm chí một thứ rác rưởi làm bừa bộn nơi công cộng. Hoặc tôi có thể đáp trả với đức tin và đức ái, và nhìn thấy nơi người này là một con người với phẩm giá giống như tôi, một thụ tạo được Chúa Cha yêu thương vô cùng, một hình ảnh của Thiên Chúa, một người anh em hay chị em được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc. Làm Kitô hữu có nghĩa là nhìn như vậy đó! Phải chăng sự thánh thiện có thể được hiểu tách rời khỏi sự nhìn nhận sắc bén này đối với phẩm giá của mỗi con người? [82]
  4. Đối với các Kitô hữu, điều này gắn liền với một sự rầy rà lành mạnh và thường xuyên. Ngay cả cho dù việc giúp đỡ chỉ một người cũng có thể trao ý nghĩa cho tất cả nỗ lực của chúng ta, thì chừng đó vẫn không đủ. Các giám mục Canada nêu rõ điều này khi các ngài lưu ý rằng ý nghĩa của Năm Toàn Xá theo Thánh Kinh thì không đơn thuần là làm một số việc thiện. Nó còn có nghĩa là tìm cách biến đổi xã hội: “Để các thế hệ tương lai cũng được giải phóng, thì rõ ràng mục đích phải là vãn hồi các hệ thống kinh tế và xã hội công bằng, nghĩa là không thể còn sự loại trừ nữa”. [83]

Các ý thức hệ đánh vào trái tim của Tin Mừng

  1. Tôi lấy làm tiếc rằng các ý thức hệ nhiều khi dẫn chúng ta tới hai sai lầm đầy tai hại. Một đàng, có loại sai lầm của những Kitô hữu tách rời các đòi hỏi này của Tin Mừng khỏi mối tương quan cá vị của họ với Chúa, tách khỏi sự kết hợp bên trong của họ với Người, tách khỏi việc mở lòng ra đón nhận ân sủng. Kitô giáo như vậy trở thành một loại tổ chức phi chính phủ (NGO) bị tước mất đặc tính thần bí ngời sáng quá rõ ràng như thấy nơi cuộc đời của các thánh Phanxicô Assisi, Vincent de Paul, Têrêsa Calcutta, và nhiều vị khác. Đối với các vị thánh nổi tiếng này thì tâm nguyện, lòng yêu mến Thiên Chúa và việc đọc Tin Mừng không hề tách các ngài ra khỏi sự dấn thân nồng nhiệt và hữu hiệu cho tha nhân; mà hoàn toàn ngược lại.
  2. Sai lầm ý thức hệ tai hại khác được thấy nơi những người nghi ngờ sự dấn thân xã hội của những người khác, xem đó như cái gì nông cạn, phàm tục, duy vật, cộng sản hay dân túy. Hoặc họ tương đối hóa nó, như thể có những điều khác quan trọng hơn, hay điều duy nhất quan trọng chính là vấn đề hay chủ trương đạo đức nào đó mà họ bảo vệ. Chẳng hạn, việc chúng ta bảo vệ các thai nhi vô tội cần phải rõ ràng, dứt khoát và quyết liệt, vì đây là chuyện bảo vệ phẩm giá sự sống con người, vốn luôn thánh thiêng và luôn có quyền được yêu thương, bất kể ở giai đoạn phát triển nào. Tuy nhiên, cũng thánh thiêng không kém, đó là sự sống của những người nghèo, những con người đã được sinh ra đời, những người cùng cực, những người bị bỏ rơi và thua thiệt, những người đau yếu và già cả bị làm mồi cho cái chết êm dịu được giấu giếm, những nạn nhân của các vụ buôn người. những dạng nô lệ mới, và mọi hình thức loại trừ. [84] Chúng ta không thể thượng tôn một lý tưởng thánh thiện mà trong đó ta thờ ơ trước sự bất công trong một thế giới mà một số người mặc sức lãng phí, tiêu pha vung vít và chỉ hăm hở tìm kiếm những món hàng tiêu dùng mới nhất, trong khi những người khác chỉ biết nhìn từ xa, và sống trọn kiếp đời trong cảnh khốn khổ.
  3. Liên quan tới chủ nghĩa tương đối và những sai lầm của thế giới chúng ta hiện nay, chúng ta thường nghe nói rằng, chẳng hạn, hoàn cảnh của những người di dân là một vấn đề ít quan trọng. Một số người Công giáo xem đó là vấn đề thứ yếu so với những vấn đề đạo đức sinh học “hệ trọng”. Ví như một chính khách đang tranh thủ phiếu bầu mà ăn nói như vậy thì còn có thể hiểu được, nhưng với một Kitô hữu thì khác, vì đối với Kitô hữu thái độ duy nhất đúng đắn là đặt mình trong hoàn cảnh của các anh chị em phải liều sự sống mình để tìm kiếm một tương lai cho con cái họ. Chúng ta không nhận ra rằng đây chính xác là điều Chúa Giêsu yêu cầu, khi Người bảo rằng mỗi khi ta tiếp đón khách lạ là ta đang tiếp đón Người đó sao (x. Mt 25,35)? Thánh Biển Đức đã sẵn sàng làm như thế, và mặc dù điều này có thể gây “phức tạp” cho đời sống của các đan sĩ, ngài vẫn truyền rằng mọi khách gõ cửa đan viện cần phải được tiếp đón “như Đức Kitô”, [85] với thái độ tôn kính; [86] phải cư xử với người nghèo và khách hành hương bằng “tất cả sự ân cần quan tâm”. [87]
  4. Điều tương tự cũng được gặp thấy trong Cựu Ước: “Người ngoại kiều, các ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai cập” (Xh 22,20). “Khi có ngoại kiều cư ngụ với các ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai cập” (Lv 19,33-34). Đây không phải là một ý niệm được giáo hoàng nào đó phát minh, cũng không phải một ngẫu hứng nhất thời. Vì trong thế giới ngày nay, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo nẻo đường khôn ngoan tâm linh mà ngôn sứ Isaia nêu ra, để cho thấy điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. “Há chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông” (58,7-8).

Việc thờ phượng được Thiên Chúa ưa thích nhất     

  1. Chúng ta có thể tưởng rằng mình tôn vinh Thiên Chúa chỉ qua việc thờ phượng và cầu nguyện, hay đơn giản chỉ qua việc tuân thủ một số qui tắc đạo đức nào đó. Quả đúng là mối ưu tiên thuộc về tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, nhưng chúng ta không được quên rằng tiêu chuẩn tối hậu theo đó chúng ta được phán xét chính là những gì chúng ta làm cho tha nhân. Cầu nguyện là quí nhất, vì cầu nguyện giúp nuôi dưỡng sự dấn thân cho tình yêu hằng ngày. Việc thờ phượng của chúng ta trở thành được Thiên Chúa vui lòng khi chúng ta quên mình để sống quảng đại, và cho phép ơn huệ của Thiên Chúa, được ban cho trong cầu nguyện, thể hiện ra trong mối quan tâm của chúng ta đối với anh chị em mình.
  2. Cũng vậy, cách tốt nhất để phân định xem việc cầu nguyện của chúng ta có chân thực hay không, đó là xét xem mức độ mà đời sống chúng ta được biến đổi trong ánh sáng của lòng thương xót. Vì “lòng thương xót không chỉ là một hành động của Chúa Cha; nó còn là một tiêu chuẩn để xác nhận ai là con cái đích thực của Ngài”. [88] Lòng thương xót “là chính nền tảng của đời sống Giáo hội”. [89] Ở đây, tôi muốn lặp lại rằng lòng thương xót không loại trừ công lý và sự thật; thật vậy, “chúng ta phải nói rằng lòng thương xót là sự viên mãn của công lý và là sự thể hiện sáng tỏ nhất sự thật của Thiên Chúa”. [90] Nó là “chìa khóa mở cửa thiên đàng”. [91]
  3. Ở đây tôi nghĩ đến Thánh Tôma, người đã đặt câu hỏi những hành động nào của chúng ta là cao quí nhất, những công việc bên ngoài nào cho thấy rõ nhất tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Tôma không chút lưỡng lự trả lời rằng đó là những việc làm của lòng thương xót đối với tha nhân, [92] thậm chí hơn cả những việc thờ phượng của chúng ta: “Chúng ta thờ phượng Thiên Chúa bằng những hy sinh và lễ vật bên ngoài, không phải để đem lại gì cho Thiên Chúa, nhưng là cho chúng ta và cho tha nhân. Vì Thiên Chúa không cần những hy sinh của chúng ta, nhưng Ngài muốn chúng ta dâng các hy sinh cho Ngài, để khơi lên lòng nhiệt thành của ta và để sinh ích cho tha nhân. Vì thế lòng thương xót, trong đó chúng ta đáp ứng nhu cầu của người khác, là một hy sinh được Thiên Chúa ưa thích hơn, vì nó hướng trực tiếp hơn tới thiện ích của tha nhân”. [93]
  4. Những ai thực sự mong muốn tôn vinh Thiên Chúa bằng đời sống của mình, những ai thực sự khao khát lớn lên trong sự thánh thiện, họ được mời gọi chuyên chăm và bền bỉ trong thực thi các công việc của lòng thương xót. Thánh Têrêsa Calcutta nhận ra rõ điều này: “Vâng, tôi có nhiều lầm lỗi và khiếm khuyết của con người… Nhưng Thiên Chúa cúi xuống và sử dụng chúng ta, các bạn và tôi, để trở nên tình yêu và lòng trắc ẩn của Ngài trong thế giới; Ngài mang lấy tội lỗi chúng ta, những lo lắng và những lỗi lầm của chúng ta. Ngài dựa vào chúng ta để yêu thương thế giới và để cho thấy Ngài yêu thương biết là ngần nào. Nếu chúng ta quá quan tâm chính mình, chúng ta sẽ không còn thời giờ cho người khác”. [94]
  5. Chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa tiêu thụ có thể chứng minh sự suy thoái của chúng ta, vì khi chúng ta mải mê tìm lạc thú cho mình, chúng ta sẽ trở thành quá bận tâm về chính mình và về các quyền lợi của mình, và chúng ta cảm thấy quay quắt cần thời gian để hưởng thụ. Chúng ta sẽ khó cảm nhận và thể hiện quan tâm thật sự đối với những người túng quẫn, trừ phi chúng ta có thể sống một đời sống giản dị, chống lại những đòi hỏi sôi sục của một xã hội tiêu thụ, là những đòi hỏi làm cho chúng ta suy kiệt, không bao giờ thỏa mãn, và chỉ mê mải lo hưởng thụ tất cả. Cũng vậy, khi chúng ta để cho mình bị cuốn lấy trong những thông tin hời hợt, trong những phương tiện truyền thông tức thời và thế giới ảo, chúng ta có thể lãng phí thời giờ quí báu và trở thành thờ ơ trước xác thịt đau đớn của anh chị em mình. Nhưng ngay cả ở giữa vòng xoáy này, Tin Mừng vẫn tiếp tục âm vang, trao cho ta lời hứa về một đời sống khác, một đời sống lành mạnh hơn và hạnh phúc hơn.

* * *

  1. Chứng tá thuyết phục của các thánh được thể hiện trong đời sống các ngài, được định hình bởi Các Mối Phúc và bởi cái tiêu chuẩn phán xét tối hậu. Chúa Giêsu không nhiều lời nhưng lời của Người thẳng thắn, thực tế và hiệu lực cho mọi người, vì Kitô giáo trước hết là cái phải được thực hành. Nó cũng có thể là đối tượng nghiên cứu và suy tư, nhưng không nhằm mục đích gì khác hơn là giúp chúng ta sống Tin Mừng tốt hơn trong đời sống hằng ngày. Tôi mời gọi đọc lại những bản văn Thánh Kinh quan trọng này cách thường xuyên, luôn tham khảo, cầu nguyện với các bản văn đó, và cố gắng thực thi trong đời sống. Các bản văn ấy sẽ giúp ích chúng ta, sẽ làm cho ta được hạnh phúc thật.

(Hết chương 3, còn tiếp)

Lm Lê Công Đức, PSS., dịch

Nguồn: Website Xuân Bích Việt Nam